sách thuế khoá nặng nề và sự bùng phát mạnh mẽ của phong trào khởi nghĩa nông dân... đã
đẩy nền kinh tế thuần nông của nước ta lâm vào tình trạng suy tàn, người nông dân bị bần
cùng, phiêu tán khắp nơi, xóm làng xơ xác, tiêu điều. Thậm chí, đến cuối năm Kỷ Dậu (1789),
sau khi anh em nhà Tây Sơn đã cơ bản đánh dẹp được các thế lực phong kiến phản động ở
Đàng Trong và Đàng Ngoài, nền kinh tế và đời sống của nhân dân vẫn trong tình trạng thiếu
đói trầm trọng. Đặc biệt hơn nữa là trên đường tiến quân ra Bắc Hà đánh quân Thanh, quân
đội Tây Sơn - Nguyễn Huệ đã được bổ sung thêm hàng vạn tráng đinh cùng một lượng không
nhỏ lương thảo từ những địa bàn như Nghệ An, Thanh Hoá... Điều này không thể không gây
ra những ảnh hưởng nhất định đến đời sống và kinh tế của nhân dân địa phương. Thấu hiểu
được vấn đề có tính chất chiến lược không chỉ liên quan đến cuộc sống trực tiếp của người
dân, mà còn là khâu quyết định đến sự vững mạnh về quốc phòng - an ninh bảo vệ Tổ quốc
của nền kinh tế đất nước, nên một trong những việc "cần làm ngay” của Nguyễn Huệ - Quang
Trung sau khi phá tan 29 vạn quân Thanh xâm lược là nhanh chóng giải quyết tình trạng
ruộng đất bỏ hoang, tận dụng sức lao động vào sản xuất nông nghiệp và coi đây là biện pháp
hàng đầu để từng bước phục hồi nền kinh tế đất nước.
Quyết sách chiến lược đầu tiên của triều đình Tây Sơn - Nguyễn Huệ là ban
hành Chiêu khuyến nông. Nội dung cơ bản của chiếu được Ngô Thì Nhậm chép trong tập Hàn
các anh hoa như sau:
"Chiếu cho quan viên và dân chứng trong thiên hạ biết:
… Trẫm chịu mệnh trời, giữ nghiệp lớn, bốn bể không lặng. Nay buổi đầu đại định,
chính sách khuyến khích sản xuất làm cho dân giàu, phải được tiến hành lần lượt.
Phàm kẻ du đãng, người giấu giàu là thói thường. Cái đạo che chở dân, chẳng gì bằng
bắt dân lưu tán trở về, khai khẩn ruộng hoang, khiến dân du thủ du thực chuyển về làm ruộng.
Còn những dân nào kiều ngự nơi khác từ trước, trốn tránh sưu dịch, hoặc ở quê vợ, quê mẹ,
hoặc đã lập nghiệp buôn bán, trừ ra những người đã nhập tịch từ ba đời trở lên, còn thì nhất
thiết bắt về bản quán, xã khác không được dung túng cho trú ngụ. Những ruộng công ruộng
tư, đã trót bỏ hoang, phải trở về nhận lấy để cày cấy, không được để hoang, khiến cho những
người thực cày cấy ruộng khác phải chịu thuế khống. Các sắc mục, xã trưởng, thôn trưởng
phải xét số định hiện có bao nhiêu suất, số điền hiện có bao nhiêu mẫu, ruộng hoang mới khai
khẩn bao nhiêu mẫu, hạn trong tuần tháng chín phải làm sổ xếp loại, đem nộp cho các quan
Phân suất, Phân tri ở huyện mình, các viên này chuyển đệ lên, đợi quan Khâm sai xét thực, sẽ
châm chước và đánh thu cho công bằng. Xã nào dung túng cho khách họ trú ngụ mà không
đuổi về bản quán và những người trốn tránh lần lữa không về, nếu có người tố giác, điều tra
sự thật, thì sắc mục, xã trưởng, thôn trưởng xã ấy cùng người trốn tránh đều bị xử tội. Xã nào
có ruộng bỏ hoang đã lâu mà không ai nhận, nếu là ruộng công, thì trách cứ vào các viên chức
sắc, các chủ hộ xã ấy, phải chiếu nguyên ngạch thuế ruộng mà nộp gấp đôi, nếu là ruộng tư thì
xung công, ngạch thuế cũng như ruộng công.