Đây là chính sách buổi đầu, hướng dân chăm nghề gốc. Lệnh ban ra là phải thi
hành!"
24
.
Với Chiếu khuyến nông, Tây Sơn - Nguyễn Huệ đã giải quyết một cách đúng đắn và
kịp thời hai vấn đề cấp thiết, nóng hổi nhất của đất nước lúc bấy giờ là dân lưu tán và ruộng
đất bị bỏ hoang. Do vậy, chỉ vài ba mùa cấy trồng sau đó, "sản xuất nông nghiệp đã dần được
phục hồi: mùa màng trở lại phong đăng, năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái
bình”
25
. Đây thực sự là một trong những yếu tố rất quan trọng góp phần cho triều đại Tây Sơn
- Nguyễn Huệ xây dựng nền quốc phòng - an ninh, bảo đảm vững chắc cho công cuộc bảo vệ
chế độ, bảo vệ đất nước.
Bên cạnh việc giải quyết vấn đề ruộng đất và dân lưu tán, Tây Sơn - Nguyễn Huệ cũng
để tâm đến phát triển kinh tế công thương nghiệp; đặc biệt là kiên quyết xoá bỏ chính sách
"ức thương”, "bế quan tỏa cảng” của các triều đại trước, đồng thời tiến hành "mở cửa" - đẩy
mạnh giao lưu, phát triển kinh tế hàng hoá với các nước láng giềng; trong đó, Thăng Long là
một tâm điểm, với "Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút", với "Thoi oanh nọ ghẹo hai phường
dệt gấm; Lửa đóm nhen năm xã gây lò", với "Chày Yên Thái nện trong sương chuểnh choảng;
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co”, với cảnh buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền
"Khách Ngô, Sở chợ Tây ngồi san sát”, "Rập rềnh cuối bãi đuôi nheo; Thuyền thương khách
hãy chen buồm bươm bướm"...
Về kinh tế ngoại thương, trước nhất Quang Trung chủ động đặt quan hệ buôn bán với
nhà Thanh. Thông qua việc nối lại quan hệ bang giao triều cống, để rồi từng bước Tây Sơn -
Nguyễn Huệ thuyết phục vua nhà Thanh cho mở cửa ải, thông chợ búa, làm lợi cho sự tiêu
dùng của dân. Từ đây các thương nhân có thể qua các ải Bình Nhi, Thủy Khẩu đến mua bán
hàng hoá ở phố Mục Mã (Cao Bằng), Hoa Sơn (Lạng Sơn), hoặc qua ải Du Thôn đến buôn
bán ở phố Kỳ Lừa (Lạng Sơn)... Đến năm Canh Tuất (1790), Quang Trung lại thương thuyết
với vua nhà Thanh cho thành lập một trung tâm giới thiệu và trao đổi hàng hoá trên đất Nam
Ninh (Quảng Tây). Tất thảy những việc làm trên đã nhanh chóng nối lại và phát triển quan hệ
buôn bán hàng hoá giữa biên giới hai nước (mà nhiều năm trước đó đã bị vua nhà Thanh ngăn
cấm, nhất là sau thất bại thảm hại ở mùa xuân Kỷ Dậu - 1789). Bên cạnh đó, đối với thương
nhân phương Tây, Tây Sơn - Nguyễn Huệ cũng dành cho họ nhiều điều kiện ưu đãi. Do vậy,
cùng với thời gian, số lượng thương thuyền Pháp, Anh, Bồ Đào Nha... ra vào buôn bán ở nước
ta ngày càng nhiều.
Về mặt tiền tệ, chỉ tính trong thời gian 5 năm ở ngôi Hoàng đế, Quang Trung đã cho
đúc tiền “Quang Trung Thông Bảo", gồm mấy chục loại khác nhau. Trong sách Tiền cổ Việt
Nam, tác giả Đỗ Văn Ninh chỉ ra rằng: Tiền Quang Trung được lưu hành rộng rãi trên khắp
nơi trong nước, kể cả miền biên viễn và hải đảo xa xôi. Về số lượng, tiền Quang Trung áp đảo
tất cả các loại tiền Việt Nam và cả Trung Quốc được lưu hành đồng thời; địa bàn lưu hành chủ
yếu là từ Bình - Trị - Thiên trở ra Bắc, nhưng ở các tỉnh phía Nam cũng lưu hành rất nhiều...
Nếu tính chung triều đại Tây Sơn, với 25 năm ngắn ngủi (1778-1802), nhà Tây Sơn đã đúc 37