LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM - TẬP 2 - Trang 162

Trước nhất, ngay từ buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa, các thủ lĩnh Tây Sơn đã sử dụng chữ

Nôm thay cho chữ Hán để soạn thảo và ban bố các bài hịch, chỉ dụ, mệnh lệnh, thư từ… Điển
hình như, năm Bính Ngọ (1786), khi mang đại binh ra đánh dẹp tập đoàn phong kiến cát cứ
phản động ở Đàng Ngoài, Nguyễn Huệ đã sai viết hịch kể tội chúa Trịnh bằng chữ Nôm. Khi
lên ngôi Hoàng đế, Nguyễn Huệ đã chính thức quyết định lấy chữ Nôm làm văn tự chính thức
của quốc gia, được đưa vào khoa cử. Tại những kỳ thi, quan trường phải ra đề bang chữ Nôm
và đến đệ tam trường, sĩ tử phải làm thơ phú bằng chữ Nôm. Đến cuối năm Tân Hợi (1791),
Quang Trung cho lập "Sùng chính thư viện" và bổ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp làm Viện
trưởng, chuyên trách việc giáo dục và dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm. Theo chiếu chỉ của
Quang Trung, Sùng chính thư viện sẽ lần lượt dịch các bộ sách Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi,
Kinh Thư, Kinh Dịch.
Kết quả là đến tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), nhóm các nhà Nho học
gồm Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định, Bùi Dương Lịch... dưới sự tổ chức và điều
hành của Nguyễn Thiện đã dịch xong bộ Tiểu học Tứ thư (32 tập). Nhưng đến khi đang
biên dịch các bộ Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch thì Quang Trung đột ngột băng hà, nên công
việc bị xếp lại.

Thông qua việc cho biên dịch các bộ sách nói trên đã phản ánh rõ được tư tưởng lớn

của Quang Trung là nhanh chóng tiến tới thay thế toàn thể các loại tài liệu, sách vở học tập
bằng tiếng mẹ đẻ - nhằm thoát ly sự lệ thuộc vào Hán tự của người Trung Quốc. Nhưng quan
trọng hơn cả, đây chính là một trong những biện pháp quan trọng nhằm khẳng định tính tự tôn
bản sắc văn hoá dân tộc, ý chí kiên quyết đấu tranh, đẩy lùi tàn dư chính sách đồng hoá của
các đế chế phong kiến phương Bắc cũng như thái độ coi thường ngôn ngữ dân tộc của các
triều đại phong kiến quân chủ Việt Nam trước đó - chuyển chữ Nôm thành văn tự chính thức
của quốc gia. Đánh giá sự kiện này, giới nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam đều thống nhất cho
rằng: "Chỉ có đến triều đại Tây Sơn, với những người "áo vải cờ đào" gắn bó với nhân dân
lao động, có nhiều ý chí quyết thắng sự xâm lược về chính trị, về
văn hoá của kẻ thù..., tiếng
Việt lần đầu tiên mới được đưa lên vị trí xứng đáng”

28

.

Cùng với việc đưa chữ Nôm lên vị trí văn tự chính thức của quốc gia, Tây Sơn -

Nguyễn Huệ cũng làm một "cuộc cách mạng” về giáo dục hết sức mạnh dạn và kiên quyết.
Bởi, theo ông "dựng nước lấy dạy học làm đầu, cầu trị lấy nhân tài làm gốc. Trước đây bốn
phương nhiều việc phải phòng bị, việc học không được sửa sang, khoa cử bổ đầu, nhân tài
ngày càng thiếu thốn.

Ôi! Hết loạn đến trị là lẽ tuần hoàn, tiếp sau hồi loạn, lại càng cần phát triển sửa sang;

lập giáo hoá, đặt khoa cử là quy mô lớn để chuyển loạn thành trị.

Trẫm khi vừa mới bình định đã có nhã ý hậu đãi nhà Nho, lưu tâm yêu mến kẻ sĩ,

muốn có người thực tài để dùng cho quốc gia.

Vậy ban chiếu xuống cho dân các xã nên lập học xá, chọn nho sĩ trong xã có học thức,

hạnh kiểm, đặt làm thầy dạy, giảng tập cho học trò xã mình. Còn Từ vũ (nơi thờ Khổng tử,

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.