bốn phía đều rừng già"
40
. Qua nhiều thế kỷ, bị mưa nắng bào mòn, nhưng dấu tích thành đất ở
thôn An Lũy còn khá rõ. Dựa vào những số liệu thu thập được, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Vũ
Minh Giang cho rằng: Thành có hình dạng bảy cạnh, gần giống như được chắp bằng một hình
chữ nhật với một hình thang nhỏ. Qua khai quật cắt ngang một đoạn lũy tương đối nguyên vẹn
cho thấy: Lũy được tạo nên bởi hai lớp tường đất dày, khoảng trên dưới 3 mét mỗi lớp. Giữa
hai lớp tường đất là một giao thông hào. Đây không chỉ là đường cơ động của các chiến binh
khi tác chiến giữ thành, mà đồng thời còn là chướng ngại để ngăn quân của đối phương khi
chúng tấn công vào thành. Trên mặt các lớp tường đất có trồng hàng rào tre gai đan kín. Với
chu vi ước tính khoảng l.938m, nếu chỉ lấy số liệu đo đạc kích thước của hiện trường những
đoạn còn lại tương đối nguyên vẹn (nhưng chắc chắn là đã bị bào mòn đi nhiều) để tính toán
thì số lượng đất đá đào đắp phải là trên 2 vạn m
3
. Điều đặc biệt nữa là, thành nằm kề đường
giao thông bộ (đường 19 ngày nay) và giao thông thủy là sông Ba, thêm vào đó là theo hướng
nam, cách rừng già chừng 6 đến 7 km, trên đó có núi Mò O, Ken Krúc (Hinh Hốt) - địa bàn cư
trú của người Bang, nên đây thực là một căn cứ quân sự thuận cả về phòng thủ cũng như về
tiến công.
Như vậy, để chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang nhằm chống lại các tập đoàn
phong kiến cát cứ, thu non sông về một mối, anh em nhà Tây Sơn đã “biết chọn” Tây Sơn
Thượng đạo - một địa thế hiểm yếu để tạo dựng nên một căn cứ quân sự vững chắc, từ đó tạo
dựng thế và lực đối trọng với tập đoàn phong kiến chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Có thể nói,
đây là một trong những quan điểm thuộc về tư tưởng quân sự đầu tiên có vai trò quyết định
đến sự phát triển và thắng lợi của phong trào nông dân Tây Sơn.
Về căn cứ Tam Điệp - Biện Sơn: Cùng với tiến trình của khởi nghĩa và chiến tranh, nếu
căn cứ Tây Sơn Thượng đạo giữ vai trò là địa điểm “hội quân", "hội lương" để tạo dựng lực
lượng của phong trào Tây Sơn trong những ngày đầu khởi nghĩa, đánh dẹp các thế lực cát cứ
Trịnh - Nguyễn ở trong nước, thì Tam Điệp - Biện Sơn là một căn cứ chiến lược rất quan
trọng đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mãn Thanh. Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Nguyễn Anh Dũng: "Khu vực quân sự Tam Điệp - Biện Sơn chính là điểm tựa chiến lược của
cuộc kháng chiến chống Thanh"
41
.
Ngay khi vừa cơ bản dẹp được các tập đoàn phong kiến cát cứ ở trong nước, hạ tuần
tháng 11 năm Mậu Thân (1788), Tây Sơn phải đối mặt với 29 vạn quân Thanh tiến xuống xâm
lược nước ta. Trước thế giặc mạnh, Bộ tướng soái Tây Sơn do Nguyễn Huệ ủy thác trấn giữ
Bắc Hà đã họp bàn kế sách chống giặc. Sau khi phân tích chỉ rõ thế “công" (tiến công) và
"thủ” (phòng thủ) trên toàn tuyến biên giới là hoàn toàn bất lợi, nên các tướng đều thống nhất
tư tưởng hành động là lập căn cứ địa để hội quân, chuẩn bị lương thảo, khí giới, chờ đại binh
từ Phú Xuân kéo ra, tạo sức mạnh và thời cơ đánh trận quyết chiến chiến lược quyết định kết
thúc chiến tranh. Theo đó, Đại Tư mã Ngô Văn Sở quyết định: “…Sớm sớm truyền cho thủy
quân chở đầy các thuyền lương, thuận gió giương buồm ra thẳng cửa biển, đến vùng Biện sơn
mà đóng. Quân bộ thì sửa soạn khí giới, gióng trống lên đường, lui về giữ Tam Điệp. Hai mặt