thủy bộ, liên lạc với nhau giữ lấy chỗ hiểm yếu rồi cho người chạy về biểu báo với chúa công.
Thử xem quân Thanh đến thành khu xử việc nhà Lê ra sao? Vua Chiêu Thống sau khi phục
quốc, xếp đặt việc quân việc nước thế nào? Chờ chúa công ra, bấy giờ sẽ quyết chiến một
phen cũng chưa muộn gì"
42
. Theo biện luận của Thị lang bộ Lại Ngô Thì Nhậm thì: "Tướng
giỏi thời xưa, lường thế giặc rồi mới đánh, nắm chắc phần thắng rồi mới hành động, tuỳ theo
tình thế thay đổi mà bày ra chước lạ. Giống như người đánh cờ, trước thì chịu thua người một
nước, sau mới được người ta một nước; đừng có đem nước sau làm nước trước, đó mới là tay
cao cờ. Nay ta hãy bảo toàn lấy quân lực mà rút lui, không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng
ngủ lại một đêm rồi lại đuổi đi"
43
.
Tam Điệp là nơi có địa thế hiểm yếu, địa hình hiểm trở, không chỉ thuận lợi cho việc
"giữ" (phòng thủ), “đánh” (tiến công) tại chỗ, mà cũng rất thuận lợi cho việc tập kết, đứng
chân của một số lượng binh lực lớn, thực hiện kế ém binh, triển khai thế trận phòng ngự, chặn
đường tiến quân của giặc Thanh nếu chúng từ Bắc Hà đánh vào, hoặc thực hiện ém binh triển
khai đội hình tác chiến tiến công một khi Đại binh Tây Sơn từ Phú Xuân tiến ra Bắc Hà tiêu
diệt quân Thanh. Trong sách Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô gia văn phái gọi dải núi Tam Điệp
là “Cổ họng” giữa Bắc - Nam, mà trọng điểm là đoạn núi rộng 7 km có trục đường "thiên lý"
băng qua trở thành một vị trí chiến lược xung yếu.
Tam Điệp cũng là một bàn đạp lớn trên bộ vừa có thể dùng cho việc cơ động lực
lượng, hành quân tác chiến lớn vào Nam hoặc ra Bắc, theo trục đường “thiên lý", lại vừa có
thể dùng cho việc cơ động lực lượng, hành quân tác chiến nhỏ theo trục đường sông và trục
đường biển qua cửa Thần Phù và theo con đường bộ nhỏ dọc phía bắc dải đồi già tới tận Nho
Quan trên "thượng đạo". Bàn đạp lớn trên bộ này lại nối thông xuống Biện Sơn ở phía đông
nam, một bàn đạp tác chiến lớn trên biển, tạo nên thế trận hai mặt thủy bộ phối hợp mật thiết
với nhau cả trong triển khai thế trận tác chiến phòng ngự lớn cũng như trong tác chiến tiến
công quy mô lớn.
Với tư tưởng “bảo toàn lực lượng mà rút lui, không bỏ mất một mũi tên, cho chúng
ngủ trọ một đêm rồi lại đuổi đi”, Bộ tướng soái Tây Sơn chỉ huy lực lượng ở Bắc Hà đã nhanh
chóng triển khai kế hoạch chiến lược lui binh - thực chất là cơ động lực lượng - từ Thăng
Long (Bắc Hà) về trấn giữ Tam Điệp và Biện Sơn. Ngoài một bộ phận nhỏ lực lượng được bố
trí chặn đánh kìm chân giặc ở các khu vực Xương Giang, bến đò sông Thương và nam bắc
sông Cầu nằm trên trục đường tiến quân của giặc, chỉ 5 ngày kể từ khi có lệnh các đạo quân ở
Thái Nguyên, Lạng Sơn, Kinh Bắc, Hải Dương và Sơn Tây đều kéo về hội tụ tại Thăng
Long. Sau khi tiến hành cuộc duyệt binh lớn ở bắc sông Nhị, ngày 15 tháng chạp năm Mậu
Thân (1788), các đạo quân thủy, bộ bắt đầu lên đường. Chỉ trong vòng hai ngày các đạo quân
bộ đều đã tập kết đầy đủ ở huyện Yên Mô (Ninh Bình) để rồi ém binh, đóng giữ dọc núi Tam
Điệp thẳng đến bờ biển phía đông Thanh Hoá; đồng thời, đạo quân thủy từ Thăng Long cùng
đạo quân Sơn Nam cũng nhanh chóng cơ động bằng đường thủy tập kết an toàn tại Bỉm Sơn.
Và, ngày 20 tháng chạp năm Mậu Thân (25-l-1789), Quang Trung đã dẫn Đại binh đến Tam