LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM - TẬP 2 - Trang 174

làng xóm người Kinh mọc lên ngày thêm nhiều bên cạnh những buôn làng (Plây) người Bana.
Dân cư sinh sống ở Thượng đạo chủ yếu là tộc người Bana Ala Kông (tức là Bana dưới chân
núi), có mối quan hệ giao hảo rộng rãi và chặt chẽ với người Kinh; do vậy, về nếp sống và
những phong tục tập quán văn hoá xã hội có nhiều điểm rất gần gũi, hòa đồng với dân cư
vùng đồng bằng. Mặt khác, khi lên khai hoang, mở đất thì ngoài việc tiếp tục phát triển nghề
trồng trọt và chăn nuôi, người Kinh cũng đem theo và mở mang nghề mộc, nghề dệt, nghề
rèn... để phục vụ cuộc sống, sản xuất. Từ đó, sản phẩm của nghề thủ công như nông cụ, vải
vóc và đồ dùng trong gia đình bên cạnh mục tiêu phục vụ đời sống thường nhật của người
Kinh, một phần quan trọng đã trở thành hàng hoá để trao đổi với những lâm sản, hương liệu...
của người Bana. Từ đây, mối quan hệ trao đổi, hợp tác làm ăn cũng như tình đoàn kết
Kinh - Thượng ngày thêm gắn bó, đặc biệt là được tôi luyện thử thách trong thực tế đấu tranh
chống áp bức, bóc lột tàn bạo của các thế lực phong kiến. Biểu hiện đậm nét của mối quan hệ
đó là hằng năm cứ đến ngày 10-2, cư dân người Kinh - Thượng sinh sống ở An Khê lại mở
hội hát "cầu huê". Tại lễ hội, bên cạnh việc tổ chức các trò giải trí dân gian, xem hát bội,
người dân còn có thể mang các sản vật, hàng hoá đến đây để mua bán, trao đổi.

Ở Tây Sơn Thượng đạo, từ rất sớm, chúa Nguyễn đã thiết lập nhiều nguồn sở để thu

thuế, vơ vét của cải, điển hình như nguồn Cầu Bông, Phương Kiệu... Phản ánh thực trạng này,
trong sách Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn viết: Chỉ riêng thuế ở nguồn Cầu Bông, hằng năm
chúng đã thu được 1.500 quan. Đó là chưa kể đến số tiền và vật phẩm không nhỏ chui vào túi
những đốc quyên, chiêu biện, trùm sỏ là những cai thu thuế và các quan lại địa phương. Và tất
yếu là, ách áp bức bóc lột tàn bạo đó sẽ "tạo điều kiện" cho những cuộc phản kháng của nhân
dân địa phương đối với chính quyền phong kiến diễn ra ngày càng quyết liệt.

Tất thảy những điều kiện tự nhiên và con người ở vùng đất Tây Sơn Thượng đạo đã

"giúp" anh em nhà Tây Sơn thực hiện được ý tưởng xây dựng nơi đây thành căn cứ địa đầu
tiên của cuộc khởi nghĩa. Để xây dựng Thượng đạo thành căn cứ khởi nghĩa, trong tư tưởng
cửa các lãnh tụ Tây Sơn trước sau nhất quán quan điểm lấy vận động quần chúng, vận động
đồng bào Thượng là công việc hàng đầu, thường xuyên, xuyên suốt trong quá trình xây dựng
lực lượng cũng như hoạt động tác chiến. Cụ thể là, bằng sự quan tâm đến đời sống, sinh hoạt
cụ thể của người dân, các lãnh tụ Tây Sơn đã dần dần thu phục được nhân tâm, tập hợp được
đại bộ phận dân nghèo hưởng ứng cuộc nổi dậy. Bằng chứng là, mặc dù cuộc khởi nghĩa đã
lùi vào quá khứ cách đây nhiều thế kỷ, nhưng đến nay, các buôn làng người Bana ở An Khê,
hầu hết người dân đều biết đến Bok Nhạc (ông Nhạc). Tại buôn làng người Đê chơ găng, nhân
dân còn lưu truyền nhiều câu chuyện về các lãnh tụ Tây Sơn, ví như: Trên bờ suối Chơ Ngao
còn lưu lại một "hòn đá ông Nhạc" gắn với sự tích lưu truyền trong dân gian rằng đây là “chỗ"
mà ông Nhạc thường ngồi nghỉ chân mỗi khi qua lại vùng đất này và coi đó là một vật thiêng
của làng. Còn ở Tà Nia, trên dàn bếp của mỗi gia đình còn thờ một túi gạo và một túi muối.
Theo các già làng kể lại thì đây là một cách nhớ ơn sâu nặng đối với các lãnh tụ Tây Sơn về
sự giúp đỡ dân làng khi thiếu đói thời bấy giờ... Từ những sự tích gắn với những câu chuyện

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.