Lịch sử quân sự Việt Nam đã khẳng định rằng: một trong những vấn đề có tính chất
tiền đề, bảo đảm cho sự thành bại của tất cả các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chính là hệ
thống các căn cứ địa, hậu phương, hậu cần. Đây là nơi tập hợp, đứng chân xây dựng, đồng
thời là nơi tích trữ, cung cấp, tiếp tế và cũng là bàn đạp xuất phát tiến công của lực lượng khởi
nghĩa và chiến tranh. Theo đó, trong hệ tư tưởng quân sự thời Tây Sơn, tư tưởng về xây dựng
căn cứ địa cho khởi nghĩa và chiến tranh được hình thành từ khá sớm và gắn bó chặt chẽ với
tiến trình xây dựng lực lượng, thắng lợi từng bước của tướng sĩ Tây Sơn. Kế thừa và phát huy
những quan điểm tư tưởng về khởi nghĩa và chiến tranh trong lịch sử dân tộc, với chí khí của
những người con đất võ, không thể ngồi yên nhìn cảnh đất nước bị chia cắt bởi các tập đoàn
phong kiến họ Nguyễn ở Đàng Trong, họ Trịnh ở Đàng Ngoài ngày đêm thoả sức bóc lột nhân
dân, đẩy quốc gia, dân tộc vào con đường suy vong, các lãnh tụ Tây Sơn đã sớm nghĩ đến việc
chọn địa bàn lập căn cứ chuẩn bị khởi nghĩa. Song cùng với tiến trình khởi nghĩa và chiến
tranh, các căn cứ, hậu phương hậu cần của Tây Sơn không ngừng phát triển cả về số lượng và
chất lượng để phục vụ trực tiếp và kịp thời cho việc hội quân, ém quân, làm bàn đạp xuất phát
tiến công đánh những trận quyết chiến chiến lược, lật đổ cáctập đoàn phong kiến cát cứ, thống
nhất đất nước cũng như đánh bại quân xâm lược, giành lại chủ quyền lãnh thổ quốc gia, dân
tộc.
Với tư tưởng chọn nơi có địa thế hiểm yếu, địa hình hiểm trở, thuận cho "giữ" (phòng
thủ) và "đánh" (tiến công), nhà Tây Sơn đã tạo dựng nên những căn cứ và điểm tựa chiến lược
có vai trò quyết định đối với sự thành công trong khởi nghĩa và chiến tranh; tiêu biểu nhất
trong số đó là Tây Sơn Thượng đạo, Tam Điệp - Biện Sơn.
Về căn cứ Tây Sơn Thượng đạo, hồi thế kỷ XVIII không phải chỉ bao gồm huyện Tây
Sơn tỉnh Bình Định như hiện nay. Theo phân chia địa giới hành chính thời chúa Nguyễn, Tây
Sơn thuộc phủ Quy Nhơn, bao gồm những trại ấp ở cả phía đông và phía tây đèo Mang (đèo
An Khê). Dựa vào đặc trưng của địa hình, nhân dân đã đặt tên cho vùng đồng bằng phía đông
đèo Mang là Hạ đạo và vùng rừng núi phía tây đèo là Thượng đạo (Theo địa giới hành chính
hiện nay, Tây Sơn Thượng đạo chiếm phần lớn diện tích của huyện An Khê, tỉnh Kon Tum).
Các lãnh tụ Tây Sơn đều được sinh ra và trưởng thành tại ấp Kiên Thành thuộc vùng
Hạ đạo. Do sớm ấp ủ ý chí vùng dậy chống lại ách áp bức bóc lột tàn bạo của chúa Nguyễn ở
Đàng Trong, nên trong tư tưởng anh em Tây Sơn muốn tìm một mảnh "đất thiêng" để chiêu
tập lực lượng, dựng cờ khởi nghĩa. Và đồng thời cùng với việc buôn bán kiếm sống phải
thường nhật qua lại vùng Tây Sơn Thượng đạo, Nguyễn Nhạc đã phát hiện ra tính chất hiểm
yếu của vùng rừng núi này, bởi: đây là vùng đất cao nguyên tương đối bằng phẳng bao bọc
xung quanh là núi và rừng già. Án ngữ trên hướng Bắc cao nguyên này là dãy Ngọc Linh,
hướng đông và nam là dãy Trụ Lĩnh trùng điệp với “hình thế cao dốc kéo dài tới mấy trăm