thị thành lập Khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn,
Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Ngày 4-6-1945, Hội
nghị cán bộ Việt Minh được triệu tập, do lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì. Nghị
quyết Hội nghị nêu rõ: “Để chuẩn bị cuộc khởi nghĩa sắp đến, tất cả những
khu vực Quân giải phóng đã chiếm được thống nhất lại thành một khu gọi
là Khu giải phóng”
49
. “... củng cố Khu giải phóng thành một căn cứ địa
kháng Nhật vững chắc”
50
. Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng được
thành lập. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Thường trực Ủy
ban đồng thời chỉ huy quân sự. Khu giải phóng ra đời là nguồn cổ vũ tinh
thần to lớn đối với nhân dân cả nước đang đấu tranh vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Khu giải phóng ra đời còn có ý nghĩa sâu xa trong đấu tranh
quân sự như lời căn dặn cán bộ của lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Trong chiến
tranh du kích, lúc phong trào lên, ta phải hết sức phát triển, vừa phát triển
vừa chú trọng xây dựng căn cứ cho thật vững chắc, để đề phòng lúc khó
khăn mới có chỗ đứng chân được”
51
.
Thực hiện chủ trương của Đảng, các cấp ủy đã lãnh đạo quần chúng
đấu tranh cách mạng; từ thực tiễn phong trào, các căn cứ địa được củng cố,
khu giải phóng được bảo vệ và mở rộng. Ở các căn cứ địa và khu giải
phóng, chính quyền cách mạng được thành lập, các chính sách cơ bản về
kinh tế, chính trị, quân sự... của Việt Minh được tổ chức thực hiện, lực
lượng vũ trang được tăng cường, tạo đà cho đấu tranh vũ trang phát triển
mạnh.
Như vậy, để tiến tới khởi nghĩa vũ trang giải phóng dân tộc,
Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã nêu rõ các quan điểm,
các giải pháp thực hiện và chỉ đạo thực tiễn giải quyết thành công
nhiều vấn đề về xây dựng thực lực cách mạng, tạo thành nhân tố bên
trong quyết định thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm
1945 lịch sử.