nghĩa chống Pháp đã nổ ra liên tiếp. Ban đầu còn chịu sự chi phối của tư
tưởng trung quân ái quốc nên họ đã chiến đấu dưới ngọn cờ lãnh đạo của
triều đình. Nhưng trước thái độ bạc nhược, thỏa hiệp và đầu hàng giặc của
triều đình, một số sĩ phu, văn thân đã tự đứng lên tổ chức kháng chiến. Họ
không chỉ đánh giặc giữ nước mà còn chống triều đình đầu hàng.
3) Vua Tự Đức chết đã làm cho phe chủ hòa yếu thế trong triều
đình. Phái chủ chiến đã tiến hành cuộc bạo động ở Kinh thành Huế. Cuộc
bạo động tuy thất bại nhưng lại làm dấy lên một làn sóng cứu nước mạnh
mẽ mới. Làn sóng đó được khơi nguồn từ việc Vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần
Vương cứu nước. Lực lượng nòng cốt của phong trào Cần Vương là các
văn thân, sĩ phu yêu nước. Trước khi Vua Hàm Nghi bị bắt, phong trào Cần
Vương được đặt dưới sự lãnh đạo của triều đình kháng chiến. Sau khi Vua
Hàm Nghi bị bắt, triều đình kháng chiến tan rã, vai trò lãnh đạo phong trào
Cần Vương đã chuyển hẳn về tay tầng lớp văn thân, sĩ phu.
4) Khác với tư tưởng đầu hàng của triều Nguyễn, tư tưởng của các
văn thân, sĩ phu yêu nước không có chữ "hòa" mà chỉ có chữ "chiến". Họ
tin vào sức mạnh của dân, dựa vào dân để đánh giặc. Họ tin tưởng vào sức
mạnh chính nghĩa của cuộc đấu tranh giữ nước, và lấy đó làm cơ sở để
động viên nhân dân đánh giặc. Các văn thân, sĩ phu bên cạnh việc xây dựng
các chiến lũy phòng thủ, đã biết dựa vào làng xã, coi làng xã là pháo đài
kiên cố chống giặc. Trong kháng chiến, họ đã áp dụng nhiều kinh nghiệm
đánh giặc truyền thống như lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh..., biết
phát huy những lợi thế về thiên thời, địa lợi đánh giặc, nhận diện được
điểm mạnh và điểm yếu của ta và địch, ứng phó nhạy bén với những diễn
biến trên chiến trường. Lối đánh du kích, cơ động linh hoạt của nghĩa quân
làm cho quân địch rất lúng túng và bị động trong việc tìm cách đối phó.
5) Bên cạnh những ưu điểm thì trong tư tưởng quân sự của các văn
thân, sĩ phu cũng bộc lộ không ít những hạn chế. Những hạn chế đó nhiều
khi lại nằm trong ngay cái vốn được coi là thế mạnh, sở trường của mỗi