trong tư tưởng quân sự của ông. Hòa không phải để hàng giặc mà hòa là để
tránh bị tiêu diệt, để tranh thủ thời gian củng cố và phát triển lực lượng.
Trong suốt 11 năm đình chiến (1898-1908), nghĩa quân không chỉ giữ vững
tinh thần chiến đấu, mà còn tập trung củng cố lực lượng vững chắc về mọi
mặt, sẵn sàng đối phó với địch bất cứ lúc nào.
Nhìn chung, bộ chỉ huy nghĩa quân Yên Thế, đứng đầu là Đề Thám,
đã áp dụng khá thành công nghệ thuật đánh giặc, phù hợp với những điều
kiện thực tế của cuộc kháng chiến, góp phần duy trì cuộc khởi nghĩa trong
một thời gian dài, gây cho địch nhiều tổn thất về người và của. Đây cũng là
sự kết tinh và ngưng đọng của tư tưởng quân sự Việt Nam truyền thống,
của những người nông dân yêu nước, trong điều kiện thực tiễn chiến tranh
giải phóng đất nước của dân tộc ta vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
Bên cạnh những thành công to lớn, tư tưởng quân sự của thủ lĩnh
nghĩa quân Yên Thế cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Một trong
những hạn chế lớn nhất là tính chất cục bộ, địa phương. Mặc dù đã có sự
phối hợp đáng kể với những thủ lĩnh Cần Vương, quan hệ với Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Trường Đông Kinh Nghĩa Thục (Hà Nội), nhưng
về cơ bản cuộc khởi nghĩa này vẫn diễn ra trong thế đơn độc, thủ hiểm ở
một vùng. Do đó, Đề Thám và đội nghĩa quân không thể đối phó được với
một đạo quân xâm lược nhà nghề và cuối cùng cũng bị thực dân Pháp tập
trung đàn áp.
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế thất bại đã kết thúc một chặng đường đấu
tranh vũ trang vô cùng oanh liệt của nhân dân ta trong những năm cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định:
"Khi nhà ái quốc Đề Thám chết thì công cuộc chống Pháp có tổ chức và có
vũ trang chấm dứt. Người anh hùng dân tộc ấy cùng với một ít nghĩa quân
kiên quyết của ông đã chiếm lĩnh cả một tỉnh nhỏ và đương đầu với thực
dân Pháp trong nhiều năm"
115
. Sự kết thúc này mở ra một giai đoạn mới
trong chặng đường đấu tranh của dân tộc Việt Nam vào thế kỷ XX.