chiến đấu vừa xây dựng còn chứa đựng một nội dung lớn, vốn được kế thừa
và phát triển từ tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc”. Trong công cuộc kháng
chiến, kiến quốc, lực lượng chính là ở dân. Trong đó Đảng ta đặc biệt coi
trọng công tác xây dựng lực lượng chính trị, xác định vai trò to lớn của
quần chúng nhân dân, mà lực lượng nòng cốt là công - nông. Sức mạnh của
toàn dân trong quá trình kháng chiến, kiến quốc không phải được quy tụ
một cách tự nhiên, mà phải có một đường lối chính trị đúng đắn, hợp lòng
dân, có một tổ chức lãnh đạo kiên cường và sáng suốt đủ sức quy tụ khối
đoàn kết toàn dân. Đường lối được Đảng đề ra và chỉ đạo thực hiện trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã đáp ứng được
nguyện vọng của toàn dân tộc là đánh đổ chế độ thực dân, đế quốc và tay
sai, làm cho Việt Nam “được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”
9
.
Đối với mọi cuộc cách mạng, vấn đề cơ bản nhất là vấn đề chính
quyền. Vì vậy, ngay sau khi nước nhà độc lập, cùng với việc xoá bỏ tận gốc
chính quyền thực dân phong kiến. Đảng đã chủ trương thiết lập ngay chính
quyền cách mạng trong cả nước. Ở cấp Trung ương có Chính phủ lâm thời
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ở các địa phương có Uỷ ban lâm
thời các cấp. Để tạo thế hợp hiến, hợp pháp cho Nhà nước Việt Nam độc
lập, đã bầu ra quốc hội theo chế độ phổ thông đầu phiếu, Quốc hội lập ra
Chính phủ liên hiệp kháng chiến, thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, rồi thành lập Chính phủ kháng chiến
mới. Uỷ ban nhân dân cũng được thành lập tại các địa phương.
Như vậy là khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp,
nhân dân Việt Nam đã có chính quyền hợp pháp. Việt Nam kháng chiến với
tư cách “chủ nhân ông” với đầy đủ các cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh
chính trị, quân sự, ngoại giao với kẻ thù. Nhân dân Việt Nam tham gia kiến
quốc dưới sự quản lý điều hành tập trung thống nhất: trên có Chính phủ,
dưới có Uỷ ban nhân dân các cấp.