trong khói lửa của chiến tranh, phong trào “khoẻ vì nước” do Chủ tịch Hồ
Chí Minh phát động đã lan tỏa khắp mọi miền quê, từ thành thị tới nông
thôn; từ vùng tự do tới mặt trận và nhanh chóng biến thành một phong trào
mang tính tự giác cao trong quần chúng nhân dân.
Trong kháng chiến chống Pháp, tại các vùng tự do, căn cứ địa, Đảng
chủ trương xây dựng hệ thống bệnh viện, bệnh xá, nhà hộ sinh. Các cơ sở y
tế đó vừa phục vụ việc phòng và khám, chữa bệnh cho nhân dân, vừa đảm
nhiệm điều trị, cứu chữa cho thương, bệnh binh. Thời kỳ đầu, do cuộc
kháng chiến còn bị bao vây, phong toả, mọi thứ đều thiếu thốn, đặc biệt là
thuốc men, dụng cụ y tế, cán bộ, nhân viên ngành y tế được động viên,
khuyến khích phát huy tính sáng tạo, tự tìm tòi nghiên cứu, sản xuất một số
dụng cụ y tế và thuốc men thiết yếu phục vụ kịp thời nhu cầu dân sinh và
cứu, chữa thương - bệnh binh.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng chủ trương đưa mạng lưới y tế
xuống tận cơ sở, phát triển rộng khắp phong trào vệ sinh phòng dịch. Xây
dựng ngành y tế trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không chỉ
bó hẹp trong việc phòng và chữa bệnh cho nhân dân mà còn có bước đột
phá trong đào tạo đội ngũ cán bộ y tế có trình độ chuyên môn cao, trong
đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu khoa học; tạo nguồn nhân lực y tế phục vụ
việc phòng tránh và khám, chữa bệnh của nhân dân, chiến sĩ ở miền Bắc;
đồng thời đáp ứng kịp thời yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền
Nam. Ngành y tế kháng chiến được xây dựng theo mô hình quân - dân - y
kết hợp. Khi Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, hệ thống các đơn vị y
tế dã chiến đã được triển khai rộng khắp nhằm cứu chữa kịp thời bộ đội và
nhân dân bị thương do cuộc chiến tranh phá hoại tàn khốc của không quân
và hải quân Mỹ gây ra.
Trên lĩnh vực văn hoá, song hành cùng với quá trình xoá bỏ nền văn
hoá hạn chế sự mở rộng dân trí trên bình diện toàn xã hội của chủ nghĩa
thực dân, là quá trình xây dựng một nền văn hoá mới dựa trên ba nguyên
tắc: Dân tộc khoa học - đại chúng. Với tinh thần “kháng chiến hoá văn