giải quyết nạn đói tiến tới một nền kinh tế tự cung, tự cấp, đáp ứng được
yêu cầu trường kỳ kháng chiến.
Để mỗi một người dân đều phát huy được trách nhiệm và nghĩa vụ
của mình đối với công cuộc xây dựng, củng cố nền quốc phòng, thế ngoài
việc tăng cường giáo dục, tạo cho người dân niềm tin vào thắng lợi của sự
nghiệp kháng chiến, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần phải đề cao
địa vị làm chủ thực sự của người dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân
sự, kinh tế và văn hoá - xã hội. Tư tưởng xây dựng nền quốc phòng toàn
dân cũng xác định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của nhân dân miền Bắc. Đó
là không chỉ làm tròn nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc mà còn phải sẵn sàng hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. “Toàn thể đồng bào miền Bắc phải
luôn luôn nhớ rằng: trong lúc chúng ta đang sinh hoạt và xây dựng trong
hoà bình, thì đồng bào miền Nam ta đang hy sinh, anh dũng chiến đấu
chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Vì vậy, mỗi người chúng ta phải làm
việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt”
41
. Hay nói
cách khác, nền quốc phòng toàn dân trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ
phải đáp ứng được yêu cầu thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và
bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam.
Với tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa được xây dựng ở miền
Bắc, sức mạnh của toàn dân đã được huy động ở mức cao nhất để đưa cuộc
chiến tranh nhân dân phát triển đến đỉnh cao. Không những thế, với tư
tưởng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, quân, dân Việt Nam còn tạo lập
được những cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết trong điều kiện chiến tranh
ác liệt.
Cuộc chiến tranh giải phóng 30 năm (1945-1975) của nhân dân Việt
Nam được tiến hành trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật,
đặc biệt là khoa học - kỹ thuật quân sự trên thế giới đã có những bước tiến
vượt bậc. Triệt để tận dụng những thành tựu mới - sản phẩm của cuộc cách