lệnh, điều lệ. Trong vấn đề này, vai trò gương mẫu và trình độ tổ chức,
quản lý của cán bộ có một ý nghĩa rất quan trọng.
Đi đôi với chính quy hóa, phải đẩy mạnh hiện đại hóa quân
đội. Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, Đảng vẫn chủ
trương không ngừng đổi mới trang bị kỹ thuật cho quân đội, phát triển
các quân chủng, binh chủng kỹ thuật, nâng cao trình độ sử dụng những
vũ khí và phương tiện chiến tranh mới của cán bộ, chiến sĩ. Hiện đại
hóa quân đội trong những năm này gắn liền với việc xây dựng hệ
thống công nghiệp quốc phòng hiện đại, mở rộng hệ thống giao thông
hiện đại, nhằm bảo đảm cho quân đội hoạt động trong điều kiện chiến
tranh hiện đại.
Hiện đại hóa đã được tiến hành với yêu cầu nâng cao sức mạnh
chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước
đang xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, trong điều kiện nhân dân Việt Nam nhận được sự viện trợ
to lớn về trang bị kỹ thuật của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Chính vì vậy, việc hiện đại hóa Quân đội nhân dân Việt Nam đã có
những thay đổi to lớn và nhanh chóng nhờ vào trang bị kỹ thuật của
quân đội các nước anh em. Một yêu cầu nữa trong xây dựng quân đội
thời kỳ này là Đảng rất chú trọng yếu tố con người. Con người mới
trong quân đội nhân dân là những người có tinh thần yêu nước nồng
nàn, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa sâu sắc, có ý thức tổ chức và kỷ luật
cao, có tri thức quân sự hiện đại. Do vậy mà Đảng đã xây dựng được
một quân đội hiện đại thích hợp với điều kiện cụ thể và đáp ứng tốt
nhất yêu cầu quốc phòng trong quá trình hiện đại hóa quân đội. Đảng
luôn xác định phải quán triệt đường lối chính trị, đường lối quân sự,
đường lối kinh tế của Đảng, xuất phát từ khả năng và điều kiện thực tế
của đất nước, từ đối tượng tác chiến và sự so sánh lực lượng giữa địch
và ta, từ nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, từ khuynh
hướng phát triển của nền khoa học, kỹ thuật quân sự trên thế giới.