trường. Tại chiến trường chính (Bắc Bộ), đẩy mạnh vận động chiến; tại các
chiến trường khác, phải giữ vững và phát triển chiến tranh du kích nhằm
kiềm chế đối phương và phối hợp chặt chẽ với chiến trường chính, biến
những vùng tạm chiếm thành căn cứ đánh địch, đặc biệt là giành những
vùng đông dân, nhiều của, nhằm làm thất bại âm mưu “lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, của Pháp.
Chấp hành chủ trương trên, cùng với việc đẩy mạnh chiến tranh du
kích trên các chiến trường, quân và dân ta đẩy mạnh đánh vận động, liên
tiếp mở những chiến dịch đánh vào phòng tuyến của Pháp ở vùng trung du
và đồng bằng Bắc Bộ: chiến dịch Trung du (Trần Hưng Đạo) từ ngày 25-
12-1950 đến ngày 17-1-1951, chiến dịch Đường số 18 (Hoàng Hoa Thám)
từ 20-3 đến 7-4-1951, chiến dịch Quang Trung từ 28-5 đến 20-6-1951,
chiến dịch Hoà Bình từ 10-12-1951 đến 25-2-1951, chiến dịch Tây Bắc từ
4-10 đến 10-12-1952. Những chiến dịch này đã góp phần đánh bại âm mưu
mở rộng chiến tranh, tiêu diệt một bộ phận sinh lực đối phương, mở rộng
vùng giải phóng. Qua chiến đấu, bộ đội Việt Nam rút ra được nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu. Tuy nhiên, trong các chiến dịch đó, lực lượng vũ
trang cách mạng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định, có
phần chủ quan, nóng vội, nên hiệu suất tiêu diệt đối phương không cao.
Bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động quân sự, Trung ương Đảng và
Chính phủ còn tăng cường củng cố và phát triển hậu phương về mọi mặt,
nhằm đáp ứng hơn nữa nhu cầu về nhân tài, vật lực cho tiền tuyến. Ngày 3-
3-1951, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là
Liên Viện hợp nhất, thành lập một mặt trận duy nhất lấy tên là Mặt trận
Liên Việt. Mặt trận Liên Việt ra đời đánh dấu bước phát triển mới của khối
đại đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng chiến chống xâm lược và xây dựng
chế độ mới. Bên cạnh đó, chính quyền nhân dân các cấp được kiện toàn về
tổ chức, ổn định đi vào hoạt động, trở thành một công cụ sắc bén đủ sức
động viên sức mạnh toàn dân tham gia kháng chiến, kiến quốc.