dịch quốc doanh - mầm mống đầu tiên của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa
- ra đời. Nhà nước ta căn bản đã cân bằng được thu - chi.
Sự nghiệp văn hoá - giáo dục - y tế được quan tâm, chú trọng phát
triển. Nhiều văn nghệ sĩ đã tham gia tiền tuyến, xông pha những nơi bom
đạn, theo gót các chiến sĩ trên khắp các chiến trường, đi vào từng nhà máy,
từng công xưởng, từng cánh đồng để phục vụ cho sản xuất. Đi sâu vào đời
sống hiện thực, thấm đẫm tinh thần, không khí cuộc chiến đấu của dân tộc,
các văn nghệ sĩ đã sáng tạo nên nhiều tác phẩm văn học - nghệ thuật giàu
tính hiện thực, có giá trị cao.
Về giáo dục, đến năm 1952, cả nước có khoảng 14 triệu người đã
thoát khỏi nạn mù chữ. Năm 1953, các trường phổ thông cấp I, cấp II, cấp
III trong vùng tự do đã có gần 770.000 học sinh theo học. Từ năm 1951 đến
1953, nước ta đã đào tạo được 7.000 cán bộ kỹ thuật. Sau chiến dịch Biên
giới 1950, Đảng, Chính phủ Việt Nam cử nhiều học sinh đi học ở nước
ngoài để chuẩn bị cho sự nghiệp xây dựng đất nước khi chiến tranh kết
thúc.
Công tác chăm lo sức khoẻ được đẩy mạnh. Hầu hết các vùng tự do
đều xây dựng các bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm cứu thương. Công
tác vận động vệ sinh phòng bệnh, bài trừ mê tín dị đoan, xây dựng nếp sống
mới... ngày càng mở rộng và được nhân dân tích cực hưởng ứng.
Đến năm 1953, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt
Nam đã bước sang năm thứ tám. Cuộc chiến tranh càng kéo dài, những khó
khăn của Pháp gặp phải càng lớn. Cho đến năm 1953, lực lượng quân Pháp
trên chiến trường Đông Dương bị suy yếu rõ rệt: gần 390.000 tên bị loại
khỏi vòng chiến đấu; vùng tạm chiếm ngày càng bị thu hẹp; mâu thuẫn
giữa việc tập trung và phân tán lực lượng ngày càng rõ rệt... Trong khi đó,
tình hình nước Pháp cũng có những biến chuyển mạnh: phong trào phản
đối chiến tranh của nhân dân Pháp lên cao, nền kinh tế Pháp bị suy yếu và
Chính phủ Pháp lúng túng trước những tổn thất của cuộc chiến tranh Đông
Dương. Tuy nhiên, do không muốn buông bỏ Đông Dương, thực dân Pháp