Việt Bắc. Trải qua gần một tháng (từ ngày 16-9 đến ngày 14-10-1950)
chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi. 8.300 tên địch bị tiêu diệt hoặc bắt
sống, thu trên 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, giải phóng hoàn
toàn khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập, phá bỏ thế bao vây cả
trong lẫn ngoài của đối phương đối với căn cứ địa Việt Bắc. Với chiến
thắng này, quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ đã
về tay lực lượng vũ trang cách mạng, mở ra bước ngoặt chuyển cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam từ hình thái chiến tranh du kích lên chiến
tranh chính quy; kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích ở
trình độ cao hơn.
Sau năm 1950, các loại hình chiến tranh chính quy và du kích phát
triển ở một mức độ mới, kết nối với những phong trào chính trị được phát
động trên diện rộng ở nông thôn. Đây cũng là bước tiến mới về công tác tổ
chức mặt trận chính trị kết hợp với mặt trận quân sự ở cơ sở và liên vùng.
Bên cạnh đó, đường lối kháng chiến được triển khai ngày càng đi
vào quy củ, các cơ sở cách mạng - kháng chiến và dân - quân địa phương
ngày càng hoạt động hiệu quả, thúc đẩy thế chiến tranh nhân dân tiến một
bước quan trọng. Nhờ gắn chặt một cách hữu cơ với các hoạt động kinh tế,
chính trị, ngoại giao, văn hóa - xã hội, mặt trận quân sự đã phát triển từng
bước vững chắc và đạt những thành tựu có tính nền tảng, thúc đẩy nêu trên.
Sự thống nhất về tư tưởng - đường lối - quan điểm chỉ đạo trên mọi phương
diện cùng sự gắn kết trong triển khai trên thực tiễn là nhân tố quan trọng
tạo nên đặc tính của cách mạng Việt Nam nói chung và tính chất của nền
quân sự Việt Nam nói riêng.
c) Giai đoạn từ tháng 1-1951 đến tháng 7-1954
Sau thất bại tại mặt trận Biên giới Thu - Đông 1950, thực dân Pháp
ngày càng lâm vào tình trạng khó khăn và phải tiếp tục nhờ đến sự viện trợ
của Mỹ để theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Tháng 12-
1950, Pháp cử tướng Đờ Lát Đờ Tátxinhi làm Tổng chỉ huy quân đội viễn
chinh kiêm Cao uỷ Pháp ở Đông Dương. Tướng Đờ Lát đề ra một kế hoạch