tranh thống nhất nước nhà. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương
Đảng chủ trương chuẩn bị thực lực của cách mạng, đặt việc tăng
cường xây dựng lực lượng vũ trang ba thử quân ở miền Bắc thành một
trong những nhiệm vụ chủ yếu của quân và dân Việt Nam. Nói chuyện
với cán bộ cao cấp và trung cấp quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu
rõ Quân đội nhân dân Việt Nam nhất định phải tiến từng bước lên
chính quy, hiện đại gồm nhiều quân chủng, binh chủng, với quy mô tổ
chức và số lượng hợp lý, chất lượng ngày càng cao.
Trước yêu cầu xây dựng và phát triển thực lực của cách mạng miền
Nam, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (tháng 1 năm 1959) của Đảng
đã xác định: “Nếu ta tổ chức lực lượng chính trị cho tốt, khi cần vũ trang sẽ
không khó”. Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 15
cùng các nghị quyết Trung ương khác, việc xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng ở miền Nam được đẩy mạnh. Từ phong trào đấu tranh chính trị
của quần chúng và trong cuộc Đồng khởi, các lực lượng vũ trang giải
phóng đã ra đời, phát triển nhanh chóng với ba hình thức tổ chức: các đội
tự vệ, du kích xã; các đội vũ trang tỉnh, huyện; các đơn vị bộ đội tập trung
của khu, trong đó bộ đội chủ lực được tổ chức phổ biến với quy mô trung
đoàn, đến những năm 1965 - 1966 là quy mô cấp sư đoàn.
Đầu tháng 8 năm 1964, trước tình hình đế quốc Mỹ chuẩn bị
dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc, Bộ Chính trị họp
hội nghị bất thường, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho các lực lượng
vũ trang nhân dân: “Chuẩn bị chuyển sang thời chiến”.
Miền Bắc tiến hành xây dựng hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa
trong 10 năm đã tạo ra những thuận lợi rất cơ bản để xây dựng, phát
triển về cơ cấu, nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang
ba thứ quân. Từ phương thức tổ chức lực lượng vũ trang đã được xác
định trong những năm 1954 - 1964, Quân đội nhân dân Việt Nam đã
có bước trưởng thành mới: từ đơn thuần bộ binh, tổ chức không thống
nhất, thành một quân đội nhân dân chính quy và tương đối hiện đại,