nghiêm trọng. Hãy sẵn sàng chiến đấu để tự vệ bất cứ lúc nào và chỗ nào.
Mỗi người Việt Nam lúc này phải gánh vác nghĩa vụ thiêng liêng: bảo vệ
chủ quyền của Tổ quốc”
8
.
Dã tâm gây chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đã dẫn tới sự
phản kháng đồng loạt của quân và dân Việt Nam. Để bảo vệ thành quả cách
mạng, để sớm tạo thế và lực cho cuộc chiến đấu chắc chắn phải kéo dài,
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức cho
quân và dân các địa phương từ phía Bắc vĩ tuyến 16 trở lên, đặc biệt là ở
các đô thị, nhất tề đứng lên đánh quân Pháp xâm lược và tay sai.
Như vậy, 9 tháng thực hiện chủ trương hòa hoãn (từ ngày 6-3 đến
ngày 19-12-1946), dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
quân và dân Việt Nam một mặt hết sức kìm nén cố gắng tránh cho hai bên
khỏi một cuộc chiến nhưng mặt khác tiếp tục ra sức chuẩn bị mọi mặt, kiên
quyết chiến đấu đến cùng vì độc lập, tự do của Tổ quốc vì quyền làm chủ
cuộc sống mới vừa giành được sau đêm dài sống dưới ách phong kiến, thực
dân.
Khi chiến tranh bùng nổ trên phạm vi cả nước, Chính phủ Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tìm mọi cách để vãn hồi hòa bình, đưa tình
hình trở lại như trước ngày 19-12-1946. Chủ trương đó được thể hiện nhất
quán trong các điện, thư, lời kêu gọi gửi Chính phủ, Quốc hội, nhân dân
Pháp hoặc gửi cho cá nhân những người trực tiếp liên quan đến việc điều
tra nguyên nhân bùng phát cuộc chiến trước và sau ngày 19-12-1946, cũng
như trong việc Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp trực tiếp đại diện Cao ủy Pháp
Bôlae tại Thái Nguyên (5-1947). Khi phía Pháp vẫn một mực đưa ra những
điều kiện thực chất để buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đầu hàng, thì
cánh cửa thương lượng mới khép lại. Trong Lời kêu gọi đồng bào và chiến
sĩ cả nước sau cuộc hội kiến với Pôn Muýt, đại diện Cao ủy Pháp Bôlae,
ngày 25-5-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: vì nhân đạo, vì hòa bình, vì
muốn giữ cảm tình với dân Pháp, Chính phủ ta đề nghị với Chính phủ