một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở
đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy, và nhất định không để cho
việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta”
7
.
Với tinh thần đó, mặc dù Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã ký Tạm ước 14-9 với Chính phủ Pháp để tận dụng thời gian hòa hoãn,
xây dựng thực lực, song vẫn khẳng định kẻ thù chính là thực dân Pháp đang
tìm mọi cách để gây chiến. Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng họp ngày
19-10-1946, nhận định: Nhất định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình
và mình cũng nhất định phải đánh Pháp.
Ngày 20-10-1946, Hồ Chí Minh về đến Hải Phòng sau chuyến thăm
Pháp hơn bốn tháng rưỡi. Ngay sau đó, Người đã họp với Ban Thường vụ
Trung ương Đảng, nhận định: thực dân Pháp vẫn âm mưu lập lại nền thống
trị thuộc địa ở Đông Dương. Chiều hướng tình hình chính trường ở Pháp
cho phép chúng có thể mở rộng chiến tranh. Vì thế, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng khẳng định: không còn con đường nào khác ngoài việc tích cực
chuẩn bị kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, đồng thời vẫn tìm mọi cách
kéo dài thời gian hòa hoãn để chuẩn bị thêm.
Từ chủ trương đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết nghị
thống nhất Quân sự ủy viên hội (còn gọi là Quân ủy hội) và Bộ Quốc
phòng thành Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Đồng chí Võ Nguyên Giáp
được cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Chỉ huy quân đội. Cả
nước được chia thành 12 chiến khu để tiện cho việc chỉ đạo chung và phát
huy khả năng độc lập tác chiến của từng địa phương khi chiến sự nổ ra. Các
lực lượng vũ trang tiếp tục được xây dựng và củng cố...
Từ cuối tháng 11-1946, sau khi thực dân Pháp tạo cớ đánh chiếm
Hải Phòng, Lạng Sơn, Đảng đã chỉ rõ: “Sự thật đã chứng tỏ rằng thực dân
Pháp ngang nhiên gây hấn. Chúng định dùng vũ lực bắt ta phải nhượng bộ.
Nhưng không khi nào ta chịu. Tạm ước 14-9 là một bước nhân nhượng cuối
cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền đất nước, là hại đến quyền
lợi cao trọng của dân tộc...”. Đồng thời, Đảng kêu gọi: “...Tình thế vô cùng