Gaulle) ngày 28-12-1945. Ông ta viết: “Chính phủ Cách mạng Việt Nam
với lãnh tụ là ông Hồ Chí Minh không mong gì cái việc cắt đứt quan hệ với
Chính phủ Cộng hòa (Pháp)... Mặc dù họ đả kích mạnh mẽ những người
Pháp thực dân đế quốc (lập trường độc đoán của Đảng), họ vẫn giữ một
liên hệ sâu sắc với Pháp. Sau nữa, Chính phủ Cách mạng Việt Nam chắc
chắn mong muốn tránh một hành động quân sự mãnh liệt và đi đến một
hiệp định với nước Pháp... Do đó mà họ đang tăng cường những cuộc tiếp
xúc với người của chúng ta...”
4
.
Để làm rõ hơn lập trường mong muốn độc lập, hòa bình của Việt
Nam, ngày 6-1-1946, đúng vào ngày Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp M. Đesinh (M.
Dessinges): “Chúng tôi không hề thù ghét gì nước Pháp và nhân dân Pháp.
Chúng tôi rất khâm phục họ và chúng tôi không muốn cắt đứt những mối
quan hệ chặt chẽ nối liền hai dân tộc chúng ta... Nhưng ông nênbiết rằng:
Chúng tôi quyết tâm chiến đấu đến cùng, nếu người ta bắt buộc chúng tôi
phải chiến đấu”
5
.
Để tránh cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, khi Pháp, Trung
Hoa dân quốc ký Hiệp định Trùng Khánh ngày 28-2-1946, trong đó chính
quyền Tưởng Giới Thạch đồng ý để cho Pháp đưa quân ra miền Bắc làm
nhiệm vụ giải giáp phát xít Nhật, Thường vụ Trung ương Đang đã ra Chỉ
thị Tình hình và chủ trương ngày 3-3-1946. Sau khi phân tích tình hình và
âm mưu của các thế lực đế quốc, thực dân phản động, Chỉ thị nhấn mạnh:
“nếu Pháp giữ chủ trương cho Đông Dương tự trị theo bản Tuyên ngôn
ngày 24-3-1945, thì nhất định đánh, và rất có thể đánh lâu dài theo lối du
kích, nhưng nếu Pháp công nhận Đông Dương tự chủ thì có thể hòa, hòa để
phá tan thâm thù của bọn Tàu trắng, bọn phản động Việt Nam và bọn phát
xít Pháp còn sót lại, chúng định hãm ta vào tình thế cô độc, buộc ta phải
đánh với nhiều kẻ thù một lúc để giữ thực lực của ta tiêu hao”
6
.
Từ nhận định trên, Thường vụ Trung ương Đảng xác định: “Điều
cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng