các hương, giáp, xã đã tham gia xây dựng phòng tuyến sông Như
Nguyệt. Nhân dân còn tham gia công việc hậu cần, uý lạo binh sĩ
trong quá trình kháng chiến.
Song song với đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị giữ vị trí
hết sức quan trọng, nổi bật. Các cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam nhằm bảo vệ Tổ quốc, giải phóng dân tộc, luôn sáng ngời tính
chất chính nghĩa, vì thế ta có ưu thế tuyệt đối về chính trị so với quân
xâm lược. Giặc ngoại xâm với động cơ chiếm đóng, bóc lột, nô dịch
đất nước Việt Nam là hoàn toàn phi nghĩa. Tuy vậy, trước và trong
chiến tranh, chúng luôn sử dụng thủ đoạn chính trị lừa bịp nhân dân
Việt Nam, nhân dân nước chúng và nhân dân thế giới, giành lẽ phải về
phía chúng, lấy đó làm vỏ bọc và kiếm cớ cho việc xâm lược, thống
trị. Trước công nguyên, nhà Hán đã dùng thủ đoạn kích động, gây bất
hoà và xung đột giữa các triều đình và thủ lĩnh đất Việt, lấy danh
nghĩa cứu người này, đánh lại kẻ kia, phát binh can thiệp, thực chất là,
xâm lược, bành trướng xuống phương Nam. Tương tự như thế, tháng
4-937, lấy cớ có sự cầu cứu của Kiều Công Tiễn (kẻ phản chủ, phản
quốc), nhà Nam Hán lại phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước
Việt Nam lần thứ hai.
Thời Tống vô cớ xâm lược nước Việt Nam, trước khi cất quân
xâm lược, vua Tống đã tuyên bố: "Nay thánh triều ta lòng nhân trùm
muôn nước, cơ nghiệp thái bình kể cũng đã thịnh, điển lễ phân phong
đã sắp sửa làm, ngươi (chỉ vua nước Việt Nam) phải đến chầu cho
mình ta được khoẻ... chớ để ta phải dùng đến kế chặt xác băm xương,
làm cỏ nước ngươi, lúc ấy hối sao kịp nữa"
19
.
Để phá giặc, Lý Thường Kiệt đã thực hiện kế sách "Tiên phát chế
nhân", chủ động tiến công sang đất địch, phá các cơ sở xuất phát tiến công
của nhà Tống. Trong cuộc chiến này, Lý Thường Kiệt đã cho phát ra bản
Lộ bố, kể tội quân Tống và nêu rõ lý do xác đáng khiến ông đưa quân sang
Ung, Khâm, Liêm. Lộ bố khẳng định: "Trung Quốc dùng các phép thanh