miêu, trợ dịch, làm dân khốn khổ. Nay ta đây đem quân tới cứu"
20
. Người
đời sau kể lại rằng: "Dân Tống thấy lời tuyên cáo, đều vui mừng, đem trâu
rượu khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường Kiệt
đằng xa, thì nói đó là quân của Cha họ Lý nước Nam; rồi cùng nhau bày
hương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy danh quân ta lan khắp"
21
. Đây
thực chất là hình thức đấu tranh chính trị - tư tưởng độc đáo đầy hiệu quả.
Cũng là hình thức đấu tranh chính trị - ngoại giao, Lê Lợi và
Nguyễn Trãi đã khoét sâu vào tính phi nghĩa của quân Minh xâm lược,
nêu rõ khó khăn nội tại của quân Minh, đánh đòn hiểm vào tư tưởng -
tâm lý đối phương, cách được gọi là "mưu phạt tâm công". Trong thư
gửi tướng giặc Phương Chính, Nguyễn Trãi vạch rõ: "Bọn mày chỉ
chuyên lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà không
xót thương. Việc ấy trời đất không dung tha, thần người đều căm
giận"
22
. Trong thư gửi Vương Thông, Nguyễn Trãi phân tích: "Ở nước
các ông, quân mạnh ngựa tốt đều đóng ở miền Bắc để đề phòng quân
Nguyên, không rỗi nhìn đến miền Nam... Động dụng can qua, hằng
năm đánh dẹp, dân sống không nổi, nhao nhao thất vọng... Gian thần
chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình sinh
biến"
23
.
Khôn khéo sử dụng vũ khí chính trị - ngoại giao, Mạc Đăng
Dung đã "vận động" được quan lại cai trị vùng Lưỡng Quảng, và họ
đã can ngăn triều Minh, không phát binh đánh Đại Việt. Nhà Mạc đã
chủ động thủ tiêu nguy cơ chiến tranh.
Quang Trung - Nguyễn Huệ, ngay khi còn binh lửa với quân
Thanh, đã luận bàn và giao cho Ngô Thì Nhậm chuẩn bị lý lẽ để giao
hảo với nhà Thanh, nhằm chấm dứt nạn binh đao.
Ở thời hiện đại, quân và dân Việt Nam đã kế thừa và phát huy
mạnh mẽ truyền thống quân sự của cha ông, đưa tư tưởng kháng chiến
toàn dân, toàn diện lên một tầm cao mới, cả về nhận thức, hình thức và
hiệu quả thực tiễn. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam lần này là thực dân