hai (1285), vua Trần theo lời khuyên của Quốc công tiết chế Trần
Quốc Tuấn, đã rút khỏi căn cứ Vạn Kiếp, tiếp đó rút khỏi Thăng Long;
đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở khắp nơi, nhất là vùng
sau lưng địch. Khi quân địch rơi vào thế bất lợi, quân và dân nhà Trần
lập tức chuyển sang phản công và tiến công, buộc quân xâm lược phải
tháo chạy về nước. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Mãn Thanh, Nguyễn Huệ đánh giá rất cao kế sách rút quân khỏi
Thăng Long về Biện Sơn - Tam Điệp của Ngô Thì Nhậm.
Vào cuối năm 1946, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, quân và dân Việt Nam mở đầu cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp bằng chiến đấu vây hãm quân địch tại các đô thị bắc vĩ
tuyến 16 trở ra suốt 3 tháng, tổ chức đưa cơ quan đầu não kháng chiến
của cả nước lên Việt Bắc an toàn; các cơ quan lãnh đạo địa phương,
vật tư, lương thực, muối, thuốc men cũng được chuyển về hậu
phương; lực lượng vũ trang được bảo tồn. Từ đó, dân tộc Việt Nam có
khoảng thời gian chiến lược để cả nước chuyển sang thời chiến. Cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng diễn ra lâu dài. Những năm
đầu, quân và dân Việt Nam nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định
Giơnevơ và đấu tranh buộc địch thi hành Hiệp định. Đồng thời, khẩn
trương khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng lực lượng mọi mặt ở
miền Bắc, chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược mới. Khi
Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ, âm
mưu chia cắt đất nước, gây chiến tranh ở miền Nam, lực lượng cách
mạng Việt Nam đã có cơ sở tại chỗ và trên cả nước, từng bước xây
dựng thế trận chiến tranh nhân dân, thực hiện "liên tục tiến công địch,
đánh lui chúng từng bước, đánh đổ chúng từng bộ phận, đánh bại từng
âm mưuchiến lược của chúng, giành thắng lợi từng bước, tiến tới đánh
bại hoàn toàn quân địch"
27
.
Các cuộc rút lui chiến lược trong lịch sử dân tộc Việt Nam
không phải là những cuộc rút lui thụ động. Địa hình Việt Nam dài và
hẹp. Chủ trương tạm thời rất lui để tránh thế bất lợi ban đầu của quân