trong thời gian ngắn. Hai Bà Trưng, Lý Bí, Phùng Hưng đã lãnh đạo
nhân dân nổi dậy khắp nơi, lật đổ ách thống trị của ngoại bang trong
thời gian ngắn. Tiếp đó Ngô Quyền chỉ thực hành một trận quyết chiến
ở sông Bạch Đằng đã đánh tan quân xâm lược Nam Hán. Lê Hoàn
cũng giải quyết chiến tranh bằng mấy trận khiến quân Tống thảm bại,
v.v..
Bên cạnh những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh diễn ra trong
một thời gian tương đối ngắn, dân tộc Việt Nam trong điều kiện phải
đương đầu với đối phương có tiềm lực và sức mạnh kinh tế và quân sự
mạnh hơn gấp nhiều lần (đến thời hiện đại thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ còn có ưu thế vượt trội về vũ khí, trang bị, trình độ khoa học - kỹ
thuật), đã phải tiến hành cuộc chiến kéo dài. Truyền thống quân sự
Việt Nam, do vậy, thường là chiến lược đánh lâu dài nhằm có thời gian
chuyển hóa tương quan so sánh lực lượng, tạo thế có lợi, buộc đối
phương phải bộc lộ những mặt yếu, tạo điều kiện để đẩy mạnh tiến
công, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Rút lui chiến lược để bảo toàn và củng cố, tăng cường tạo thời cơ, thúc
đẩy và chớp lấy thời cơ, thậm chí rút khỏi kinh thành Thăng Long -
Hà Nội (thời Trần, thời Quang Trung, và ngay cả hồi đầu chống Pháp
thời hiện đại)... là ví dụ tiêu biểu cho nghệ thuật "kháng chiến trường
kỳ". Quân xâm lược càng vào sâu, càng phải đối mặt với sự chống trả
của quân và dân Việt Nam với những phương thức và hình thức linh
hoạt, sáng tạo, hiệu quả. Ở những cuộc chiến đó, quân xâm lược vấp
phải sự kháng cự không phải chỉ của lực lượng quân sự mà còn là của
toàn dân Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược
lần thứ nhất (1258), trước ý định của vua Trần muốn quyết chiến với
địch trong điều kiện bất lợi, tướng Lê Tần (Lê Phụ Trần) đã thẳng thắn
can ngăn nhà vua: "Làm như vậy thì chỉ như những người dốc hết túi
tiền để đánh một ván bạc mà thôi" và khuyên vua "hãy nên lánh đi"
26
.
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên lần thứ