không thể thiếu. Đó là: Dũng, Trí, Nhân, Tín, Trung. Có dũng thì
không ai xâm phạm được. Có trí thì không có gì làm rối. Có nhân thì
yêu dân, yêu quân. Có tín thì không lừa dối. Có trung thì không hai
lòng. Người làm tướng không nên lấy giỏi cung, đao, cưỡi, bắn làm tài
mà phải lấy thông suốt cổ kim làm giỏi. Đề cập đến phạm vi hiểu biết
của người làm tướng, Binh thư yếu lược viết: "Hình gia và danh gia
không cần kiêm binh gia, mà binh gia thì phải kiêm hình gia và danh
gia; âm dương gia thì không cần kiêm làm binh gia, mà binh gia thì
phải kiêm âm dương gia..."
48
. Điều đó có nghĩa là người tướng phải có
kiến thức toàn diện; ngoài kiến thức quân sự, phải hiểu biết sâu sắc
chính trị và pháp luật (hình gia), phải có tư duy triết học (danh gia) và
hiểu biết thấu đáo các mối quan hệ trong trời đất, thiên nhiên, xã hội
(âm dương gia). Bên cạnh các phẩm chất và yêu cầu chung của người
tướng, người tướng giỏi là những người "đứng đắn mà hay biến hóa,
cứng cáp mà hay thương người, nhân từ mà hay quyết đoán, dũng cảm
mà hay tường tất, lấy sách lược mà chế ngự quan và quân"
48
. Những
người như vậy bao giờ cũng "dựng được công nghiệp để dẹp yên họa
hoạn".
Chọn dùng tướng giỏi (bạt dụng lương tướng) là một quan
điểm lớn của triều Trần. Xuất phát từ quan điểm đó, mặc dù An Sinh
Vương có mối hận hoàng tộc nhưng do Trần Quốc Tuấn là bậc kỳ tài,
có lòng trung nên Trần Thái Tông vẫn chọn, phong ông làm đại tướng
trấn thủ biên ải và Trần Nhân Tông đã phong ông làm Quốc công tiết
chế thống lĩnh quân đội. Trong các năm 1267, 1283, vua Nhân Tông
xuống chiếu chọn trong tôn thất, trong quân hiệu, trong các quan viên,
người nào giỏi võ nghệ, tinh thông binh pháp, tài thao lược, đều cho
làm tướng coi quân. Cùng với những chủ trương lớn của triều đình,
Trần Quốc Tuấn đặc biệt nhấn mạnh đến chọn dùng tướng giỏi. Ông
cho rằng: "Đời Đinh, Lê dùng được người tài giỏi, đất phương Nam
mới mạnh... phá được quân Tống"
49
. Bởi thế, khi được bổ nhiệm làm
Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội, tháng 10-1283, ông đã ra lệnh