Theo Văn học sử Trung Quốc, ông chở ở Ấn Độ về 657 bộ kinh, trong
18 năm (645-663) mãi miết dịch được 73 bộ, gồm 1330 quyển. (ND).
Tuy nhiên, ta nên nhớ lại lời Arrien nói về cổ Ấn Độ: “Người Ấn là dân
tộc chiến đấu can đảm nhất, hơn hẳn các giống người khác ở châu Á thời
đó.
Sách này viết trong thế chiến vừa rồi. (ND).
Bá tước Keyserling viết về thành Chitor: “Không có nơi nào trên trái
đất này mà con người dũng cảm như vậy, có tinh thần hiệp sĩ và hăng hái
để tìm cái chết như vậy”.
Trong cái đám tiểu quốc đó mà ngày nay gần như không còn ai nhớ
nữa, có thời văn học, nghệ thuật, kiến trúc đã phát triển, có những kinh đô
giàu có, những cung điện lộng lẫy, và những ông vua chuyên chế hùng
cường. Nhưng Ấn Độ là một xứ rộng quá, lịch sử của nó dài quá, nên trong
đoạn này chi tiết đã quá nhiều rồi, chúng tôi đành phải bỏ qua, không nhắc
tới những ông vua đã có một thời tưởng mình làm bá chủ thế giới đó.
Chẳng hạn ông vua Vikramaditya thống trị dân tộc Chalyukan trong nửa
thế kỉ (1076-1126), đánh trận nào thắng trận nấy, nên có hồi muốn, như
triết gia Đức Neitzche, tạo một đời sống mới, một kỉ nguyên mới, các biến
cố sẽ được ghi là xảy ra “trước” hoặc “sau” Vikramaditya. Ngày nay người
ta chỉ có thể ghi lại đời ông trong một cước chú ngắn ở cuối trang.
Vua Henry VIII của Anh trị vì từ 1491 đến 1547. (Goldfish).
(1522): con số này tôi ghi thêm theo bản tiếng Anh. (Goldfish).
Tức Niccolò de Conti (1385-1469), nhà thám hiểm người Venice, từng
du lịch đến Ấn Độ, Đông Nam Á. (Goldfish).
Trận này xảy ra năm 1565. (ND).
Chúng ta nên nhớ Hồi giáo không thờ thần nào khác, ngoài thần Allah,
tức như Thượng đế của họ, và thù các tôn giáo khác. (ND).
Tiền cổ Ả Rập. (ND).
Naphte: dầu hoả ở trong mỏ, chưa lọc. (ND).
Bộ lạc Ghuri cũng của người Thổ. Nguyên văn: “the Ghuri, a Turkish