lệ, tới đâu cũng gây cảnh hỗn loạn, đói kém và rắc bệnh dịch hạch cho dân
chúng.
Khi quân đội ông ta rút về rồi, các vua Hồi ở Delhi lại trở lên ngai vàng,
tiếp tục bóp nặn dân Ấn thêm một thế kỉ nữa, tới khi bị xâm lăng hẳn.
Babur, người sáng lập triều đại Mông Cổ
không kém Đại đế Hy Lạp
Alexandre về can đảm và sức cám dỗ. Ông ta khôn khéo như tổ tiên ông là
Timur và Gengis Khan, hai cái mầm tai hoạ của châu Á đó, nhưng không
tàn nhẫn như họ. Có thể nói rằng sự quá dồi dào về sinh lực thể chất cũng
như tinh thần làm cho ông khổ. Không thể ngồi yên được, phải chiến đấu,
săn bắn, đi khắp nơi, không nghỉ, trong năm phút chỉ dùng một tay mà giết
được năm quân thù, điều đó đối với ông chỉ là một trò chơi. Có lần trong
hai ngày, ông ta phi ngựa hai trăm năm mươi sáu cây số, hai lần lội qua
sông Gange, và khi về già ông nhớ lại thì ra từ hồi mười một tuổi, không
bao giờ giữ nguyệt trai Ramadan
ở một nơi tới hai lần.
Trong tập Hồi kí của ông bắt đầu như sau: “Năm mười hai tuổi ta làm vua
xứ Ferghana”. Mười lăm tuổi ông bao vây rồi hạ được thành Samarcande,
nhưng rồi lại phải bỏ vì không đủ tiền trả quân lính; ông suýt chết vì bệnh,
phải trốn trong rừng một thời gian, rồi chỉ cầm đầu hai trăm bốn chục quân,
ông chiếm lại được thành; lại mất thành một lần nữa vì có kẻ phản, phải
sống hai năm trong cảnh nghèo tại một nơi hẻo lánh, đã có ý muốn rút về
Trung Hoa sống một đời nông dân, nhưng rồi ông cũng tập hợp được một
đạo quân mới, truyền tinh thần dũng cảm cho binh sĩ và chiếm được
Kaboul. Năm đó ông hai mươi hai tuổi
. Chỉ có mười hai ngàn quân,
một số kị binh thiện chiến, ông ta thắng được trăm ngàn quân của vua Hồi
Ibrahim ở Panipat, giết hàng ngàn tù binh, chiếm Delhi, sáng lập ở đó một
triều đại đáng coi là vẻ vang nhất, thi hành được nhiều ân huệ nhất trong số
các triều đại ngoại nhân đã đô hộ Ấn Độ. Ông sống bốn năm yên ổn ở
Delhi, làm nhiều bài thơ rất hay, viết hồi kí và mất hồi bốn mươi bảy tuổi,
nhưng cứ xét những hoạt động cùng mạo hiểm của ông thì bốn mươi bảy
năm đó cũng bằng trên một trăm năm.