cùng ngôn ngữ châu Âu, như vậy người Âu cùng một chủng tộc với người
Ấn thời các kinh Veda, người ta gần như có thể nói rằng tất cả các môn
nhân chủng học và môn ngôn ngữ học hiện đại xuất phát từ đó. Năm 1805,
tập khảo luận On the Vedas của Colebrooke phát lộ cho châu Âu biết những
áng văn chương cổ nhất của Ấn Độ, cũng vào khoảng đó. Anquetil
Duperron dịch một bản dịch Ba Tư của bộ Upanishad, nhờ vậy Schelling
và Schopenhauer mới được biết triết học Ấn Độ mà Schopenhauer khen là
thâm thuý nhất, chưa từng thấy. Hồi đó, và mãi đến năm 1826, Burnouf
xuất bản cuốn Essai sur le Pali, nghiên cứu về tiếng Pali, người phương
Tây cơ hồ chưa biết chút gì về tư tưởng Phật giáo. Burnouf ở Pháp và môn
đệ ông Max Muller ở Anh, đã làm cho các học giả, các nhà bảo hộ văn
nghệ dịch và xuất bản tất cả các “thánh thư của phương Đông”, đồng thời
Rhys David cặm cụi suốt đời giới thiệu văn học Phật giáo để bổ túc công
việc đó. Chính nhờ sự gắng sức đó, người ta nhận thấy rằng chỉ mới hiểu
biết được một chút xíu về Ấn Độ, mặc dầu những công trình kể trên đáng
coi là quan trọng, hiện nay kiến thức của chúng ta về văn học Ấn Độ không
hơn gì những kiến thức của tổ tiên chúng ta thời Charlemagne về văn học
Hi La. Nhưng có lẽ những phát kiến đẹp đẽ đó đã làm cho chúng ta quá
hăng hái mà đánh giá quá cao lợi ích của chúng chăng. Chúng ta chẳng
thấy đấy ư? Một triết gia châu Âu đã bảo “triết học Ấn Độ sâu sắc nhất” và
một tiểu thuyết gia danh tiếng đã viết: “Tôi không thấy ở châu Âu và châu
Mĩ có những thi sĩ, nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo quần chúng nào đáng đem ra
so sánh thôi – chứ đừng nên nói là bằng – các thi sĩ, nhà tư tưởng, nhà lãnh
đạo quần chúng Ấn Độ”.
Chú thích:
Thành phố lớn thứ hai của A Phú Hãn. (Goldfish).
Bản tiếng Anh ghi là Shimla. (Goldfish).
Do tiếng Daskshina (tay phải) (tiếng La Tinh là dexter). Một tín đồ
đứng ngó về phía mặt trời mọc, sẽ thấy phương Nam ở bên tay phải, do đó