người sinh con đẻ cái, thêm hoài những khoen mới vào cái chuỗi sinh sinh,
tạo nên những nỗi khổ mới chẳng có mục đích gì cả. Một đệ tử nghe Ngài
giảng, cho rằng Ngài chấp nhận sự tự tử, Ngài bảo không phải vậy vì tự tử
không ích lợi gì hết: linh hồn chưa được thanh khiết, vẫn còn dục vọng thì
còn phải đầu thai hoài cho tới khi hoàn toàn trút hết được bản ngã mới thôi.
Đệ tử xin Ngài giảng rõ thêm về “chánh mệnh”, Ngài bèn đặt ra “ngũ giới”
– những giới luật ngắn và giản dị, nhưng “có lẽ hàm súc hơn mà cũng khó
theo hơn “thập giới” trong Do Thái giáo”:
1. đừng sát sanh.
2. đừng trộm cắp.
3. đừng vọng ngữ.
4. đừng uống rượu.
5. đừng tà dâm.
Về một khía cạnh nào đó, lời dạy của Phật hợp với lời dạy của Ki Tô một
cách lạ lùng, cơ hồ như Phật giáo báo trước Ki Tô giáo. “Dĩ nhân đáp sân,
dĩ đức báo oán… Thắng thì gây oán vì kẻ bại thấy đau khổ… Không bao
giờ oán diệt được oán, chỉ yêu mới diệt được oán”. Cũng như Ki Tô, Ngài
ngượng nghịu khi tiếp xúc với phụ nữ và Ngài đã do dự lâu lắm mới cho họ
vào tăng hội. Một hôm, một đệ tử thân tín, Ananda, hỏi:
“Bạch tôn sư, đối với phụ nữ phải làm sao?”
“Tránh đừng nhìn họ, Ananda.”
“Nhưng nếu nhìn họ thì phải làm sao?”
“Đừng nói với họ, Ananda”
“Nhưng nếu họ hỏi trước thì phải làm sao?”