Ta đây : Núi Lam-sơn dấy nghĩa ; chốn hoang-dã nương mình. Ngắm
non sông cam nỗi thế-thù, thề sống chết cùng quân nghịch tặc. Đau lòng rức
óc, chốc là mười mấy nắng mưa ; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy-xét đã tinh ; ngẫm trước đến nay, lẽ
hưng phế đắn-đo càng kỹ. Những trằn-trọc trong cơn mộng-mị ; chỉ băn-
khoăn một nỗi đồ-hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên ; chính lúc quân thù đang
thịnh. Lại ngặt vì : Tuấn Kiệt như sao buổi sớm ; nhân tài như lá mùa thu.
Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ đần ; nơi duy-ác hiếm người bàn-bạc. Đòi phen
vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt dục đông
; mấy thủa đợi chờ, luống đằng-
đẵng cỗ xe hư tả
. Thế mà trông người người càng vắng ngắt, vẫn mịt-mù
như kẻ vọng dương
. Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi
chửng nịch
. Phần thì giận hung đồ ngang dọc ; phần thì lo quốc-bộ khó
khăn. Khi Linh-sơn lương hết mấy tuần ; khi Khôi-huyện quân không một
đội. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiến thiên ma ;
cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy ngọn
cờ phấp-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi đan hồ ; mở tiệc quân chén rượu ngọt
ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi ;
quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
Dọn hay : Đem đại-nghĩa để thắng hung tàn ; lấy chí-nhân mà thay
cường-bạo. Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy ; miền Trà-lân trúc phá tro bay.
Sĩ khí đã hăng ; quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan ;
Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh. Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc
; lấy Đông-đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông ; bên
Tuỵ-động xác đầy ngoài nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng ; Lý Lương lại phơi
thây. Vương Thông hết cấp lo lường ; Mã Anh không đường cứu đỡ. Nó đã
trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao ; ta đây mưu phạt tâm công,
chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó đã thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới
lui ; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là
phải, chỉ quen đổ vạ cho người ; tham công một thời, chẳng bõ bày-trò dơ
nhuốc. Đến nỗi đứa trẻ-con như Tuyên Đức
, nhàm võ không thôi ; lại sai
đồ dút dát Thạnh, Thăng, đem đầu chữa cháy. Năm Đinh-mùi tháng chín,