người đầu bếp đầu tiên là người thầy thuốc đầu tiên. Từ những bước khởi đầu thô thiển như thế, nghệ
thuật của y học phát triển khi con người bằng trải nghiệm đã khám phá ra chế độ ăn và khẩu phần nào
phù hợp khi bệnh tật và khi khỏe mạnh. Khi y học trở nên tinh vi hơn, thì người thầy thuốc lại càng trở
nên khéo léo và lành nghề hơn. Khi kiến thức về con người và thiên nhiên ngày càng nhiều, các triết gia
mới đề xướng ra các lý thuyết về bản chất đời sống con người và từ những lý thuyết đó họ rút ra các hệ
thống trị liệu. Y học và triết học tương tác với nhau để mỗi bên đều có lợi, nhưng Hippocrates không
muốn bị trói buộc bởi bất cứ giáo điều y học, hoặc hệ thống trị liệu cứng nhắc nào, chẳng hạn như việc
điều trị “tương tự” hoặc “đối nghịch”. Các thầy thuốc kinh nghiệm biết rằng một số bệnh được chữa lành
bằng cách sử dụng các chất đối nghịch và một số khác bằng các chất tương tự. Trên thực hành, đó là,
người thầy thuốc phát hiện một số bệnh “nóng” trên một số bệnh nhân có thể chữa lành bằng các thuốc
mát, trong khi những bệnh khác lại đòi hỏi các thứ thuốc làm cho ấm.
Nếu người thầy thuốc không bị trói buộc bởi các hệ thống triết lý, thì người thực hành nghệ thuật chữa
bệnh cũng không bao giờ được hành động như một người thợ không chút đầu óc. Người thầy thuốc chân
chính hiểu được các nguyên lý hướng dẫn diễn biến hành động của mình trong mỗi trường hợp, vì có
liên quan đến bản chất của con người, bệnh tật, chẩn đoán, thuốc men và điều trị. Hơn thế nữa, sự biểu
hiện về kiến thức y học cũng như tư cách đúng mực của người thầy thuốc khiến cho bệnh nhân tin tưởng.
Khi không có các chuẩn mực và tiêu chuẩn nghề nghiệp được luật pháp quy định, thì hầu như ai cũng có
thể tự cho mình là thầy thuốc. Vì vậy, để bảo đảm cho danh tiếng của mình khi phải cạnh tranh với bọn
lang băm và pháp sư, người thầy thuốc phải chứng tỏ rằng y học là một nghệ thuật và là một khoa học có
khả năng nâng cao sức khỏe và chữa được bệnh tật. Những lời than phiền về các thầy thuốc dốt nát và
các trò lang băm trắng trợn xuất hiện trong nhiều tác phẩm của Hippocrates, cho thấy rằng nghề y đã bị
đám người mạo danh làm cho danh tiếng của nghệ thuật này bị hoen ố rồi.
Những vấn đề liên quan đến sự công nhận nghề nghiệp, chuẩn mực hành nghề và các nghĩa vụ đạo đức
đã được đề cập trong nhiều tác phẩm của Hippocrats. Tuy nhiên, cái công thức được biết rộng rãi gọi là
“lời thề Hippocrates” có thể đã được soạn thảo và phổ biến nhiều năm sau khi Hippocrates mất. Không
mấy nghi ngờ là lời thề nguyên thủy được viết bằng tiếng Hy Lạp, được ghi nhận qua các bản thảo cổ
xưa và văn khắc tại các đền thờ Hy Lạp. Còn nhiều điều không chắc chắn về nguồn gốc, việc sử dụng,
mục đích và ý nghĩa của Lời Thề, nhưng cũng có khá nhiều bằng chứng cho thấy rằng văn bản vốn được
tôn vinh như là hạt nhân của đạo đức y học phương Tây thực sự là “một tuyên ngôn của phái Pythagore
mới”. Trong thời kỳ La Mã, các thầy thuốc Hy Lạp như Scribonious Largus, là ngự y của Hoàng đế
Claudius, dâng Lời Thề Hippocrates để chứng tỏ họ có ý đồ tốt và đáng tin cậy. Tuy nhiên, Lời Thề rõ
ràng là không có mấy ảnh hưởng cho đến khi được chấp nhận về cơ bản như một chiếc cầu nối thời cổ
đại với nền văn minh Cơ Đốc.
Mặc dù trong Lời Thề có nhắc đến lời hứa là sẽ hành nghề y vì lợi ích của người bệnh, cấm không cho ai
liều thuốc độc, hoặc sử dụng kiến thức y học có thể gây nguy hiểm hoặc thương tổn cho người bệnh,
nhưng trước hết đó chỉ là một sự giao ước riêng tư giữa một thầy thuốc trẻ đối với sư phụ của mình, chứ
không phải là lời hứa của thầy thuốc trước bệnh nhân như ta thường nghĩ. Thật vậy, người Hy Lạp không
có luật hành nghề y học chính thức để thi hành những giao ước như thế. Trong chừng mực nào đó, chính
lòng yêu nghệ thuật, cùng với tình yêu con người và sợ mất danh dự, hơn là chính hành động thề đã làm
cho các môn đồ Hippocrates tuân thủ theo các tiêu chuẩn cao nhất trong đạo đức ngành y.