LỊCH SỬ Y HỌC - Trang 83

Thái độ đối với chứng động kinh có thể xem như một loại giấy quỳ tím để đánh giá mức độ hiểu biết
toàn vẹn về người bệnh. Rủi thay, nền y học Hippocrates lại không phù hợp với thành kiến chung quanh
động kinh, điên khùng và những chứng bệnh được coi là kỳ bí khác. Suốt chiều dài lịch sử, các liều
thuốc điều trị động kinh gồm có những phương cách ma thuật và mê tín, cũng như các cách điều trị vừa
nguy hiểm và vô bổ đi từ việc trích huyết và đốt cháy mô cho đến cách khoan sọ và cắt bỏ tử cung. Vào
cuối thế kỷ thứ 12, vấn đề định nghĩa động kinh được coi là rất rối rắm đến nỗi các thầy thuốc thường
nói về “các chứng động kinh” khi muốn người khác hiểu chẩn đoán của mình khác so các quan niệm
trước kia coi động kinh là một bệnh lý đơn nhất (unitary). Qua bao thế kỷ tìm tòi, nguyên nhân của động
kinh vẫn còn mù mờ, tiên lượng không chắc chắn, và những cách điều trị được chấp nhận thường gây hại
nhiều hơn là có hiệu quả.

Học thuyết về thể dịch đã giải thích hợp lý chế độ trị liệu được đề ra nhằm giúp đỡ quá trình lành bệnh tự
nhiên qua cách trích huyết, xổ ruột và điều chỉnh chế độ ăn nhằm loại bỏ những thứ dịch có hại và ngăn
ngừa sự hình thành các thứ dịch xấu bổ sung. Căn cứ trên những mối nguy hiểm được cho rằng nằm sẵn
trong đa số các thực phẩm, người thầy thuốc có thể cho bệnh nhân không ăn gì ngoài nước cháo gạo, mật
pha loãng nước, hoặc dung dịch dấm, mật và nước. Thật vậy, để giúp cho cơ thể tự chữa lành bệnh,
người thầy thuốc có thể “cắt giảm” chế độ ăn của người bệnh tới mức hầu như bỏ đói.

Mặc dù y học Hippocrates ưa chuộng các cách điều trị nhẹ và đơn giản, nhưng các thầy thuốc người Hy
Lạp có thể kê đơn nhiều loại thuốc khác nhau, dưới nhiều dạng như là thuốc bôi, xoa, vòng nâng
(pessaries), thuốc viên và tọa dược. Phần lớn các thành phần của thuốc là thảo dược tại chỗ, nhưng có
một số được nhập từ Ấn Độ và Ai Cập. Các bài thuốc có thể chứa các thành phần dễ chịu như quế, đậu
khấu và nghệ. Ngược lại, một thứ thuốc lợi tiểu được nhiều người biết dành cho các bệnh nhân phù
thũng là con bửa củi (can tharides beetles) sau khi đã bỏ đi phần đầu, chân và cánh (con bọ gây bỏng da
hoặc ruồi Tây Ban Nha từ lâu đã được dùng dưới dạng phơi khô nghiền thành bột để làm thuốc lợi tiểu
hoặc thuốc cường dương khi dùng trong hoặc làm chất kích thích da nếu dùng ngoài).

Tuy nhiên, một số ca cần đến các phương pháp mạnh hơn như giác hút, rạch da, cắt mạch, đốt mô và các
hình thức phẫu thuật khác. Căn cứ theo một trong những ẩn dụ chỉ đạo cho việc thực hành y học
Hippocrates, “Cái gì mà thuốc không chữa được, thì dao sẽ làm được; cái gì mà dao không làm được, thì
nhờ đến cách đốt mô”; khi đốt mô không giải quyết được lúc ấy mới được coi là không thể chữa được”.
Nói chung, “ngoại khoa” có nghĩa là điều trị các vết thương, gãy xương, trật khớp và các thương tổn
chấn thương khác. Trong những trường hợp như thế, kinh nghiệm của người thầy thuốc và các kỹ năng
học được thảy đều quan trọng bởi vì các thầy thuốc của trường phái Hippocrates không làm giải phẫu
xác chết hoặc thực hiện việc mổ xác động vật theo bài bản.

Vì thế, chỉ có những cơ hội được quan sát trên các bệnh nhân bị thương tích và kiến thức chung về giải
phẫu học của động vật mới giúp làm rõ hơn “chiếc hộp đen” đó là cơ thể con người.

Khi xử lý các vết thương và vết loét, những đơn thuốc đơn giản và sự sạch sẽ giúp cho cơ thể lành bệnh
mà không bị viêm tấy hoặc mưng mủ nhiều. Nhiều loại thảo dược được sắc bằng nước hoặc trộn với
rượu vang, được dùng để rửa hoặc băng bó vết thương. Những đơn thuốc có chứa kim loại như đồng và
chì dưới dạng muối hoặc oxide được dùng để làm se và làm dịu vết thương. Băng bó vết thương và gãy
xương là một hình thức nghệ thuật qua đó người thầy thuốc chứng tỏ được sự nhanh nhẹn, khéo léo và
tinh tế.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.