cố hương) hoặc bài VIII.18 (Cách xử sự với bọn cướp) có thể gọi là cố sự
(nếu ta cho là việc có thật) mà cũng có thể coi là ngụ ngôn (nếu ta cho là
không có thật, thật hay không, làm sao mà biết được?).
Lại thêm đa số các bài trong chương I, II, III, IV cũng có thể sắp chung vào
chương V hay chương VI.
Đó là đặc điểm của bộ Liệt tử. Tuy là một tác phẩm về triết mà chỉ một
phần mười là lí thuyết, còn chín phần kia toàn là kể truyện: truyện cổ,
truyện hoang đường, truyện có thật, truyện tưởng tượng… để đưa ra một tư
tưởng, một chủ trương, một lời răn, một điều dạy khôn.
Do đó tác phẩm rất hấp dẫn, đọc rất vui, khác hẳn các bộ Đạo Đức kinh,
Mặc tử,Tuân tử…, giá trị văn chương chỉ kém Nam Hoa kinh của Trang tử,
từ đời Đường được tôn xưng là một kinh cũng đáng.
Chúng tôi đã đối chiếu cả ba bản, rán dịch cho sát, nhưng nhiều chỗ rất khó
hiểu, phải tồn nghi. Việc chú thích cốt gọn, để độc giả đủ hiểu thôi.
Sài Gòn ngày 8-1-1973
Chú thích:
Nhan đề khó hiểu, các bản chữ Hán và các từ điển Từ Hải, Từ Nguyên
đều không giảng, chỉ cho biết thuỵ là một thứ ngọc khuê ngọc bích dùng
làm dấu hiệu. Dấu hiệu đó các vua thời xưa ban cho các đại thần. Nó vừa là
một bảo vật đẹp, vừa là đem phúc lại cho người đeo. Theo Benedykt
Grynpas, thiên thuỵ là phần vũ trụ mà chúng ta nhìn thấy được, nhờ thấy nó
mà các thánh nhân mới tìm hiểu được Đạo. Cho nên thiên 1 này bàn về vũ
trụ và Đạo.