Hải quân bắt đầu mất kiên nhẫn. Họ đã chi ra 100.000 đô la - tương
đương khoảng 1,5 triệu đô la ngày nay - mà khả năng có được thứ
thuốc đuổi cá mập hiệu quả thực tiễn vẫn chẳng khác gì so với một
năm trước, OSS bị đẩy ra rìa, và dự án được giao lại cho Văn phòng
Nghiên cứu Hải quân và Phòng Thí nghiệm Hải quân (NRL). Điều đầu
tiên Hải quân tiến hành là thực hiện các cuộc thí nghiệm thực tế hơn.
Springer và Burden mới chỉ nhử mồi những con cá mập đơn lẻ bơi
lang thang - “cá mập thường” - bằng cách sử dụng những khúc cá đối
thay cho người đeo phao cứu sinh. Phòng thí nghiệm Hải quân muốn
một kịch bản tương đồng hơn với hiện trường tan hoang của một vụ
chìm tàu hay một chiếc máy bay bị bắn rơi với “một bầy lớn những
con cá mập cuồng ăn”, một cảnh tượng họ nghĩ là rất thu hút và có
tính gợi mở.
Hành động “cuồng ăn” là một trạng thái tâm lý trong đó việc xem
xét, ngửi thử đều bị lấn át hoàn toàn bởi “cơn cuồng bầy đàn”. Vào
tháng Tám năm 1943, một chiếc tàu đánh bắt tôm tại Biloxi,
Mississippi đã mang theo đồng sulphat và thử nghiệm xem nó có thể
bảo vệ được “cá tạp” - những con cá giãy đành đạch vì hoảng loạn bị
ném trở lại mặt nước bởi chúng không phải là tôm. Đoán xem điều gì
xảy ra? Dù họ đã dùng tới khoảng 2,3-2,7 kg đồng axetat cho mỗi
thùng cá tạp mà chẳng “tác động một chút nào” đến đám cá săn mồi
điên cuồng bơi theo tàu. “Lũ cá mập hầu như không ngừng lại chút
nào.”
Cú tát cuối cùng vào Dự án 374 là sự xuất hiện của bài báo do Đại
tá Hải quân H. David Baldridge Jr. viết có tựa đề: “Sự bất khả thi của
việc vô hiệu hóa một con cá mập đang tấn công bằng cách cho nó tiếp
xúc với thuốc hóa học tan trong nước.” Bằng cách so sánh tốc độ tiếp
cận của cá mập với tốc độ tan và nồng độ cần thiết để sinh vật này
ngừng tấn công, Baldridge cho thấy lượng thuốc cần thiết sẽ lớn đến
mức “không còn là một phương cách hợp lý nhằm kiểm soát tập tính
săn mồi của cá mập”. Như một đồng nghiệp của Burden đã nói thẳng,