ca đúng là bị thương do cá mập tấn công”. Với báo cáo từ khắp nơi
gửi về, cuối cùng người ta chỉ đếm được có hai ca. (Còn có thêm một
ca tấn công nữa nhưng kết quả điều tra sau đó chỉ ra thủ phạm là một
con “lươn biển hung dữ”.) OSS đã phản ứng theo đúng cung cách
truyền thống của một cơ quan tình báo: họ xóa sổ toàn bộ các báo cáo.
“Báo cáo về các cuộc tấn công của cá mập đã bị hủy như ngài yêu
cầu,” một nhân viên đã viết trong một văn bản liên văn phòng gửi tới
Harold Coolidge vào tháng Mười hai năm 1943.
Đây lại là một quả bom thối khác của OSS. Họ đã quyết định phát
triển một loại thuốc đuổi cá mập chỉ dựa vào trải nghiệm của một
người đàn ông và các mối quan hệ chính trị của một người khác mà
không dựa trên cứ liệu vững chắc chỉ ra sự cần thiết của việc đó. Nếu
như bạn xem xét lại vụ tai nạn tại Ecuador - nguồn cơn của dự án - nó
thực sự không phải là một bằng chứng về mối nguy hiểm hay sự hung
hãn của lũ cá mập. Có chăng thì nó là bằng chứng cho thấy lũ cá mập
chẳng hứng thú và (hoặc) nhát cáy. Viên sĩ quan không quân đó đã trôi
nổi trong chiếc áo phao cứu sinh 31 tiếng, rồi lên bờ với cơ thể không
có lấy một vết bầm nào từ đàn cá mập đã bơi theo anh ta suốt quãng
đường từ ngoài biển vào.
Nếu như muốn giữ vững tinh thần của ai đó, cách tốt hơn sẽ là chia
sẻ những sự thật và thống kê có tính trấn an như trên. “Thông tin chính
xác,” McIntire viết, “sẽ có tác dụng xoa dịu nỗi sợ hãi tốt hơn bất kỳ
loại thuốc đuổi cá mập nào có thể được chế ra.” Bắt đầu từ năm 1944,
Hải quân đã làm vậy. Đơn vị Đào tạo và Huấn luyện Không quân của
họ đã phân phát một cuốn sách mỏng có tên Cảm thức về cá mập cho
mọi phi công tương lai: gồm 22 trang ghi chép các dữ kiện thực tế dễ
chịu, kèm hình vẽ minh họa về những con cá mập nhát cáy, sợ hãi toát
mồ hôi và bỏ chạy (kêu “KÍU!”).
Và thực tế đã chứng minh điều này là đúng. Trong một bản xem xét
đánh giá các báo cáo về 2.500 phi công phải đấu tranh sinh tồn trên