khí sẽ kết hợp với nhau để tạo thành các bóng khí. Đừng quan tâm đến
lý do. Chúng đúng là kết hợp như thế. Giờ bạn sẽ có một cốc nước sủi
tăm tươi mát hoặc một ca bệnh giảm áp. Bệnh giảm áp xảy ra khi các
bóng khí hình thành trong khắp cơ thể và gây hại: chúng giống như
những cục máu đông và ngăn máu chảy tới các cơ quan quan trọng,
hay chèn ép mô cơ và gây đau đớn, hoặc cả hai, và còn nhiều tác hại
nữa.
Thợ lặn có thể tránh được bệnh giảm áp bằng cách ngoi lên từ từ.
Làm thế, cơ thể có thế xả bớt khí khi nó thoát ra từ máu và đi vào
trong phổi. (Khí ni tơ là thủ phạm chính; không khí chứa rất nhiều loại
khí này và nó thường hòa tan và ẩn nấp trong chất béo.) Thợ lặn càng
hít thở không khí áp suất cao lâu, và/hoặc không khí nén ở áp suất
càng cao, thì càng có nhiều khí ni tơ cần phải thải ra, tức là người đó
cần ngoi lên chậm hơn nữa.
Bệnh giảm áp có thể, hoặc không thể, gây nguy hiểm cho những
thủy thủ thoát hiểm từ tàu ngầm. Nếu họ may mắn, không khí trong
tàu ngầm gặp nạn vẫn ở nguyên trong tình trạng như lúc rời cảng:
được tăng áp suất ở mức tương đương trên mặt biển. Trong trường hợp
này, thủy thủ tàu thường thoát hiểm với rất ít nguy cơ mắc bệnh giảm
áp. Tuy nhiên nếu con tàu ngập nước, phần nước tràn vào sẽ nén
không khí trong tàu giống như một máy nén rác. Lúc này, thủy thủ tàu
cũng giống các thợ lặn thở bằng bình khí: họ sẽ hít thở không khí áp
suất cao và một phần lượng khí trong không khí đó sẽ bị đẩy vào máu
và mô của họ. Tùy thuộc vào thời gian mà họ hít thở thứ không khí
này và mức độ nén của nó, họ có thể, giống như một thợ lặn, phải
giảm áp trước khi ngoi lên mặt nước một cách an toàn. Việc hít thở khí
nén trong khoang thoát hiểm trong khoảng một phút anh ta ở đó, thời
gian đó không đủ để gây ra vấn đề trừ khi ở độ sâu rất lớn. Giả sử, ở
độ sâu 240 m, không khí trong khoang thoát hiểm có thể bị nén tới áp
suất rất cao (để cân bằng với áp suất bên ngoài và có thể mở được cửa