sót. Mặt khác, bạn lại không muốn việc huấn luyện và diễn tập diễn ra
quá dày khiến những người trông coi kho đạn và lò phản ứng bị thiếu
ngủ kinh niên.
Năm 1949, thời gian biểu trên tàu ngầm cho phép thủy thủ ngủ
mười tiếng một ngày. Bên cạnh “giấc ngủ dài”, một nửa số thủy thủ
đoàn đều có thể chợp mắt ít nhất một lần trong ngày. Từ năm 1954,
tàu ngầm chuyển từ động cơ diesel sang động cơ năng lượng hạt nhân.
Hệ quả là có thêm rất nhiều thứ phải để tâm đến ngoài mấy cái đồng
hồ đo nhiệt độ hay mức dầu. Trên tàu USS Tennessee, trung bình thủy
thủ chỉ được ngủ có bốn tiếng.
Trước khi lên tàu, tôi đã nói chuyện điện thoại với nhà nghiên cứu
giấc ngủ, Đại tá Greg Belenky (đã nghỉ hưu), người thành lập ra Trung
tâm Nghiên cứu Giấc ngủ và Năng lực tại Đại học bang Washington,
Spokane. Belenky hiểu điều gì sẽ xảy ra với con người khi thời gian
ngủ của họ giảm từ tám tiếng một đêm xuống còn bốn hay năm tiếng.
Sau vài ngày, năng lực nhận thức của họ sẽ giảm dần, từ mức cân
bằng, xuống một trạng thái bị tổn hại. Họ ngủ càng ít, các năng lực
thần kinh của họ càng bị tổn hại và mất nhiều thời gian hơn để ổn định
lại. Năng lực thần kinh nào bị ảnh hưởng? Hầu hết tất cả. Việc thiếu
ngủ làm giảm trí nhớ và giảm hoạt động của mạng lưới dây thần kinh
duy trì tư duy, ra quyết định, và làm mất sự cân bằng giữa lý trí và
cảm xúc, Belenky nói. “Cô hẳn đã có lúc đang giải quyết một vấn đề
khó khăn đến mức muốn từ bỏ? Sau đó cô ngủ một giấc sâu, sáng tỉnh
dậy và đột nhiên tìm thấy giải pháp? Giấc ngủ có tác dụng như vậy
đấy. Nó giúp đưa bộ não về trạng thái bình thường.”
Trên tàu ngầm, các thủy thủ cấp thấp thường bị thiếu ngủ trầm trọng
hơn. Ngoài những nhiệm vụ được phân công và gác, họ còn phải
chuẩn bị cho kỳ “đánh giá năng lực”, một dạng thi sát hạch dưới tàu
ngầm: hơn sáu mươi câu hỏi vấn đáp về các bộ phận và hệ thống trên
tàu ngầm kèm những bài kiểm tra thực hành về nhiều yếu tố chuyên
môn trên con tàu - tất cả mọi thứ từ cầm bánh lái cho đến việc dùng