thể đã chết não của họ, cấp oxy cho nó và gắn vào cơ thể một người
khác đã đủ khó lắm rồi. Cân nhắc đến huyết thống, như Cooney nói,
“vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn tình huống hiến tặng thông thường mà
hầu hết mọi người có thể nghĩ đến.” Trong khi đó, những lựa chọn đơn
giản hơn đã có sẵn. Quân đội có thể, lẽ dĩ nhiên, trữ tinh trùng của mỗi
người lính trong ngân hàng tinh trùng trước khi đưa họ ra chiến
trường.
Rob Dean, bác sĩ tiết niệu của Trung tâm Y tế Quân sự Walter Reed
ta gặp trong chương 4, phản bác rằng việc ấy cũng không hề đơn giản.
“Đó là một thủ tục thuộc về lựa chọn cá nhân,” anh nói khi tôi đến
thăm. “Quân đội không thể ra lệnh ‘Vào hàng, chúng tôi yêu cầu các
anh phải hiến tinh trùng’.” Đó là vấn đề về lợi-hại. Có thể ba trăm cựu
chiến binh trở về từ Chiến dịch Duy trì Tự do bị thương và không thể
sinh con. “Vậy chỉ vì ba trăm người này mà chị bắt một trăm năm
mươi ngàn anh chàng đi hiến tinh trùng?” Trong bối cảnh ngân sách từ
Bộ Quốc phòng liên tiếp bị cắt giảm như hiện tại, việc này khó mà
thuyết phục được họ mở hầu bao. Madoff phỏng đoán rằng những
người duyệt chi ngân sách quốc phòng có thể còn có một vấn đề quan
ngại khác. Một quả phụ sử dụng tinh trùng hiến tặng của một cựu
chiến binh đã mất không chỉ sinh ra một đứa trẻ mà còn tiêu tốn một
khoản cấp dưỡng từ chính phủ.
Còn có giải pháp thứ ba. Tinh trùng điển hình có thể sống khoảng
bốn mươi tám tiếng, vậy nên người ta có thể - trong trường hợp khẩn
cấp - trích xuất nốt mẻ tinh trùng còn lại, cơ hội cuối cùng của người
lính để làm người cha sinh học, trong phòng thí nghiệm. “Tuy nhiên,”
Dean nói, “nếu họ không đồng ý, tôi không thể làm được việc đó. Tôi
không biết liệu anh lính có muốn làm cha hay không, bây giờ hoặc sau
này. Tôi cần xác tín điều đó, hoặc nhận được sự đồng thuận [từ trước
đó] của người bảo trợ pháp lý hoặc người thân của anh ta. Những
người vợ và bạn gái có thể thất vọng, nhưng đó không phải là cơ thể
của họ.”