ấy, dân ấy thà không có cái thứ đẹp đẽ truyền tụng ngàn năm đó
còn hơn.
Hôm đó là mùng Tám tháng Mười một, tương truyền là ngày sinh
của Nguyệt Lão, đúng dịp hội miếu Thuận Phong cho nên người
đông vô cùng.
Bấy giờ ở một gian điện thờ trong miếu đang có một nữ tử chắp
tay, cúi đầu, rất mực thành kính quỳ trước tượng Nguyệt Lão. Gian
điện này hẳn đã có từ lâu lắm, cột xà mối mọt cho nên trước nay
không để cho khách vào dâng hương.
Trong điện có buông một tấm rèm, do nhuốm khói hương năm
này qua năm khác nên nó đã mất đi màu vàng đỏ nguyên bản, càng
làm nổi rõ nét u ám nơi đây.
Đây vốn là bệnh chung của những gian Phật điện. Có điều, trong
cái ánh sáng mờ mờ tăm tối, khuôn mặt của nữ tử quỳ trên bồ đoàn
càng hiện vẻ tĩnh lặng. Xà cũ mục nát, tượng cổ đèn mờ che lấp đi
làn ánh sáng như ánh gốm tỏa ra từ đôi má nàng.
Nữ tử nọ tuổi tầm hăm bảy, hăm tám, dáng người mảnh dẻ, trang
phục giản dị. Áo màu lam nhẹ, váy sắc vàng nhạt. Màu sắc đơn điệu
vốn khó mặc nhưng khoác trên người nàng lại tỏa ra khí chất ưu
nhã. Hai sắc màu đó hòa cùng với gian điện có chút tối tăm này,
hơi va chạm, như đá lửa mài nhẹ, toát ra vẻ mềm mại, nhuần nhị
khó tả. Chỉ thấy khuôn mặt nàng mi ướt sương đượm, mắt nhuốm
sóng biếc, trên đầu cài một cây trâm ngọc, hạt ngọc trên đầu trâm
dưới ánh nến phảng phất chút lạnh lùng.
Một lúc sau, nàng đón cây hương từ tay một bé gái bên cạnh, cắm
lên án thờ, miệng lầm rầm khấn mấy câu rồi mới chỉnh trang y
phục, sau khi đứng dậy thì lại hướng tới tượng Nguyệt Lão vái nhẹ một