và tiếng máy chạy ầm ầm. Kermit đi vòng qua cửa chính nơi có chòi gác để
tìm một lối vào ít bị kiểm soát hơn. Một ụ đất phủ đầy tuyết nằm giữa một
bãi phế liệu.
Brady chưa bao giờ quanh quẩn ở các khu vực dưới đáy của New York
nhiều như những ngày gần đây.
Khi đã vào được bên trong, Kermit dẫn anh len lỏi qua hàng đống lộn
xộn những container. Họ nhìn thấy một chiếc lán, ở đó công nhân đi ra đi
vào liên tục để lấy mũ bảo hộ phía trên một cái giá. Kermit tiến lại gần,
thản nhiên như thể đang làm việc tại đây, lấy mũ rồi quay trở lại chỗ Brady
và chìa ra trước mặt anh một cái.
“Đội cái này đi, mọi người sẽ nghĩ anh làm việc ở đây.”
“Tôi không nghĩ là chỉ đơn giản vậy đâu…”
“Không sao đâu! Tôi đã lảng vảng tại các bến cảng trong vòng hai năm
trời, nên tin tôi đi, chỉ đơn giản vậy thôi…”
Sau khi đội mũ bảo hộ, họ đi dọc theo một bờ kè có neo hai con tàu chở
hàng. Con tàu thứ ba to tới mức che khuất cả mặt trời.
“Teddy nói một trong hai gã chúng ta tìm làm tiếp tế,” Kermit vừa nói
vừa chỉ hai dáng người đang đứng nói chuyện bên cạnh những hàng ống
khổng lồ chạy dọc từ dưới lên trên một boong tàu. “Người tiếp tế là người
phụ trách cung cấp thực phẩm cho các con tàu.”
Một xe bán tải tuần tra của đội An ninh xuất hiện từ xa, Kermit rảo bước
để nhập hội cùng hai người trước mặt.
“Tôi đang tìm Ronnie Tishpart…”
Một trong hai người đàn ông nhìn cách ăn mặc kỳ dị của Kermit với vẻ
khó chịu. Họ đều mặc áo bờ lu xanh dương, mang giày bảo hộ và khoác áo
gi lê màu vàng cam có phản quang bên ngoài.
“Gần bể chứa ấy,” người thứ hai trả lời trong lúc giơ ngón tay cái ngược
ra phía sau vai.
Kermit đi anh về phía những bể chứa ở đầu kè.