phát ra một nửa đã dừng lại. Chưa nghe được lệnh hoàn chỉnh, không kẻ
thuộc hạ nào dám tự ý hành động, nếu không tính mạng của họ sẽ còn thảm
hại hơn cả kẻ đang bị giày vò trong khảm.
Cửa chính của phòng kiệu đã biến thành một cửa hang rực lửa, ông Lục
không thèm nghĩ ngợi, lập tức lao người vào bên trong. Quả đúng như ông
dự liệu, bên trong không hề bốc cháy. Trong phòng kiệu trống rỗng không
có chiếc kiệu nào, người đàn bà kia cũng không thấy đâu, chỉ có hai chiếc
ghế dài đặt tựa vào hai bên tường trái phải làm nơi cho kiệu phu nghỉ ngơi.
Người đàn bà kia đã đi đâu? Bà ta đã đi đâu? Bà ta đã lui vào giếng trời
bên trong phòng kiệu.
Người đàn bà đứng sững sờ im lặng, tấm áo dài rộng thùng thình thình
che kín toàn bộ thân mình, nhưng không biết từ khi nào trên mặt bà ta đã
đổi sang một tấm mặt nạ ly miêu màu đồng xanh.
- A, ly miêu! Gia tộc của bà quả nhiên đã phá giải được bức tranh!
Ông Lục vẫn ngồi bệt trên nền đất thở hổn hển, nhưng lời nói không hề
đứt quãng, mà rành mạch rõ ràng, hoàn toàn không giống lời lẽ của một lão
già thương tích đầy mình, đứng còn không vững. Đây chính là nhờ công
phu Đại hoán khí mà ông đã học được trên núi Long Hổ.
Người đàn bà kia không đếm xỉa đến ông, tiếp tục lui thêm vài bước vào
trong giếng trời, im lặng đứng dưới môn lâu bằng gạch chạm xây kiểu đầu
hồi bịt đốc. Ông Lục cảm thấy rất quái lạ, lúc này cho dù bà ta đang giận
dữ hay có tính toán gì, cũng nên nói mấy câu mới phải, tại sao lại đổi tính
đột ngột như vậy? Ông Lục nheo nheo đôi mắt, quan sát thật kỹ đôi mắt ẩn
sau tấm mặt nạ. Đôi mắt giờ đây đã không còn long lanh, trong trẻo như
xưa, lại càng không còn vẻ kiều mỵ như hai mươi năm về trước. Không!
Đôi mắt đó không đúng! Phía sau tấm mặt nạ đã không còn là người đàn bà
phong tình quyến rũ thuở nào.
Ông Lục bèn cười lên ha hả, tiếng cười tuyệt không có vẻ gì đau đớn: