lật, nào là bẫy kẹp răng hổ, nào là khuôn sắc cắt đậu phụ, đều không mảy
may động chạm tới thân thể.
Cô tiếp tục di chuyển lên trên, nhưng bước chân không còn nặng nề như
khi nãy, mà thay bằng những bước nhảy nhẹ nhàng không một tiếng động.
Khảm diện bố trí đến bậc tận bậc thang thứ tám, đây cũng là bậc cao nhất
của cầu thang, có nghĩa là trên cầu thang sẽ không còn bất kỳ khảm diện
nào khác nữa.
Cô đã lên được đến cầu thang của lầu trên. Tại đây, cô nhìn thấy một sân
khấu thấp, trên sân khấu bày một bàn hai ghế, rất giống với cách bài trí sân
khấu bình đàn(*) Tô Châu.
(*) Bình đàn là một loại hình khúc nghệ dân gian thịnh hành ở vùng
Giang Nam. Bình tức là bình thoại, có nghĩa là kể chuyện. Đàn tức đàn từ,
vừa kể vừa hát. Đàn từ thường kết hợp với các nhạc cụ như tì bà, tam
huyền. Nội dung thường kể về những tiểu thuyết, dã sử, truyền kỳ lưu
truyền trong dân gian.
Trên mặt bàn bày một cây đàn tam huyền nhỏ, hai chiếc ghế đặt hai bên
đều đã có người ngồi sẵn. Một bên là một người đàn bà mập mạp, bên kia
là một lão già gầy xác.
Lão già thân người gầy đét, hệt như một bộ xương khô, khuôn mặt dày
cộm những phấn. Lớp phấn trắng bệch không thể bám chặt vào lớp da mặt
chằng chịt nếp nhăn, rơi xuống dính khắp thân người, thành những vệt
trắng loang lổ trên tấm áo dài xanh sẫm đã bạc phếch. Tư thế ngồi của lão
cũng rất dị thường, cả người thẳng đuột ngã ra phía sau, đầu gác trên ghế,
mông chỉ hơi chạm vào mặt ghế, bộ dạng giống như đang ngủ, nhưng mắt
thao láo miệng há hốc hướng lên trần nhà, im lìm như khúc gỗ.
Còn người đàn bà lại phì nộn khác thường, trên mặt trét một lớp phấn
sáp bóng mỡ, trắng nhễ nhại, lại vẽ vợi thêm đủ loại sáp màu lòe loẹt, lông
mày, bóng mắt, bóng mũi, má hồng chẳng thiếu món gì, đến bộ móng tay
cũng quết sơn đen bóng. Mụ ta ngồi rất ngay ngắn, tay ôm một cây đàn tỳ
bà.