Rebecca bước theo dì Claudia vào một căn phòng bừa bộn khác với hàng
dãy tủ bếp trông như thể được thay mới lần cuối cùng từ hồi những năm
1950. Một chiếc bàn dán formica đã bong tróc đặt chính giữa căn phòng,
một cỗ bài ta-rô cũ tả tơi chặn giữa lọ muối và lọ tương ớt hiệu Alligator
Bite. Rebecca nhận ra lọ tương ớt ngay lập tức, vì bố cô ở nhà lúc nào cũng
có một chai Alligator Bite trong tủ lạnh. Cô không hề nghĩ rằng ở
Louisiana này cũng có thứ đó.
“Số người da đen ở New Orleans hiện giờ vẫn đông hơn người da trắng.”
Dì Claudia vừa nói với Rebecca vừa đặt chiếc ấm đun nước cũ xỉn vào bồn
rửa bát. “Hoặc chí ít là tính đến thời điểm trước khi cơn bão tràn qua.
Không ai biết còn bao nhiêu người sống ở nơi này nữa. Mọi thứ vẫn còn
trong... ờ, trong cái mớ bòng bong. Con đói chưa, bé yêu?”
Rebecca lắc đầu. Chỉ nghĩ đến thức ăn thôi cũng khiến cô cảm thấy buồn
nôn.
“Con thì có.” Aurelia lôi từ trong tủ lạnh ra một gói sô-cô-la đã chảy
nhão nhầy nhụa. “Mẹ ơi, mình có thể ăn một chút bánh này không?”
Trong lúc hai người đang tranh cãi về việc Aurelia có nên đợi đến khi ăn
tối xong rồi mới được ăn bánh hay không, thì Rebecca quan sát khắp lượt
căn phòng. Nó thật luộm thuộm và bừa bãi, hoàn toàn đối lập với căn bếp
gọn gàng và hiện đại của nhà cô ở New York. Và thay vì một quyển lịch
ngay ngắn được treo phía trên chiếc điện thoại, thì trên bức tường đã bong
tróc từng mảng sơn là những tờ lịch nham nhở được dán chằng chịt, trông
như thể chúng được xé ra từ một quyển lịch để bàn, kiểu lịch có mỗi trang
là một ngày.
Một trong số những tờ lịch đó đề ngày hôm nay, ngày hai mươi lăm
tháng Mười. Tất cả những tờ lịch còn lại có ngày tháng hoàn toàn ngẫu
nhiên: một tờ lịch tháng Ba, một của tháng Mười hai, hai tờ đề tháng Hai -