khách hàng giảm đi do mật độ cao hơn của các khách hàng. Tuy
nhiên, nếu đội ngũ bán hàng được phân chia theo các dòng sản phẩm,
khi doanh số tăng cao tại một khu vực sẽ hạn chế lợi ích kinh tế vì đòi
hỏi nhân viên bán hàng phải đến khu vực này nhiều hơn các khu vực
khác ở gần trụ sở.
Những sự gia tăng lợi ích kinh tế theo quy mô cũng không tương
đương nhau. Sự đo lường quy mô sẽ khác nhau giữa các hoạt động giá
trị; và cũng khác nhau giữa các ngành. Những doanh nghiệp bỏ qua
điều này thường tự làm suy yếu vị thế chi phí tương đối của mình. Với
một vài hoạt động giá trị, quy mô toàn cầu chính là yếu tố tác động
đáng kể đến chi phí. Đối với những hoạt động khác thì phạm vi trong
nước, phạm vi vùng, phạm vi địa phương, nhà máy, dự án, dòng sản
phẩm, phạm vi người mua, đơn hàng hay mức giới hạn quy mô khác
đều có thể đặt nền móng cho hành vi chi phí
.
Ví dụ như trong công tác nghiên cứu và phát triển sản phẩm, quy
mô quốc gia hoặc toàn cầu thường là sự giới hạn quy mô thích đáng.
Phát triển một mẫu sản phẩm mới đòi hỏi sự đầu tư cố định và phần
đầu tư này sẽ được trả dần về sau trên số lượng các đơn vị sản phẩm
được bán. Chi phí phát triển một mẫu sản phẩm chuẩn bán trên phạm
vi thế giới sẽ nhạy cảm với quy mô toàn cầu này, còn chi phí tương tự
cho các sản phẩm được điều chỉnh để phù hợp với những nước riêng
lẻ sẽ nhạy cảm hơn với quy mô quốc gia. Tiêu biểu là sự gia tăng lợi
ích kinh tế theo quy mô trong vận tải xoay quanh quy mô khu vực
hoặc địa phương, hoặc quy mô theo người mua, tuỳ thuộc vào loại
hình vận tải được triển khai. Quy mô địa phương hay quy mô vùng là
đại diện cho mật độ của những người mua và cũng từ đó đại diện cho
khoảng cách giữa điểm giao hàng và vị trí của người mua đó. Những
nhà vận tải thường giảm giá cho các lô hàng trên số container sử
dụng, lượng xe hơi hay khối lượng vận chuyển trên tàu hỏa đến một