thuộc sở hữu nhà nước), cung cấp những đại lý cho các sản phẩm
ngược dòng v.v…, những mục tiêu có thể đem lại những khoản lợi
nhuận khó có thể được chấp nhận trong ngành. Một đối thủ với mục
tiêu lợi nhuận thích hợp sẽ ít có khả năng bán sản phẩm với giá thấp
hoặc đầu tư mạnh để tấn công vị thế của doanh nghiệp. Ví dụ, những
khác biệt trong các mục tiêu đã làm cho McDonnell-Douglas trở
thành một đối thủ tốt hơn của Boeing trong ngành máy bay, còn
Airbus Industries thuộc sở hữu nhà nước là đối thủ kém hơn.
CHẤP NHẬN MỨC LỢI NHUẬN HIỆN CÓ . Một đối thủ tốt,
trong khi tìm kiếm mức lợi nhuận hấp dẫn, thường là hài lòng với lợi
nhuận hiện có và nhận thức được rằng việc cải thiện lợi nhuận là chưa
khả thi. Một cách lý tưởng thì đối thủ cạnh tranh bằng lòng với khả
năng sinh lợi thấp hơn so với doanh nghiệp trong những phân khúc
mà hai bên cùng phục vụ. Trong tình huống này, đối thủ không có xu
hướng phá vỡ sự cân bằng trong ngành để cải thiện khả năng sinh lợi
của mình, đồng thời lợi nhuận khiêm tốn của họ có thể làm nản lòng
những đối thủ mới muốn tham gia.
MONG MUỐN TẠO RA TIỀN MẶT (CASH GENERATION) .
Một đối thủ tốt sẽ quan tâm đúng mức đến việc tạo ra tiền mặt cho
những cổ đông hoặc công ty mẹ của mình, mà không làm hỏng sự cân
bằng của ngành bằng năng lực sản xuất mới hoặc đại tu dòng sản
phẩm chính yếu. Tuy thế, một đối thủ tốt không thu lợi từ vị thế của
họ trong ngành bởi vì điều này sẽ đe doạ đến độ tin cậy và khả năng
phát triển của họ.