nhân vắng mặt, cao hơn nhiều so với ở các quốc gia
tiên tiến khác
.
Cơ cấu của thị trường vốn ở Anh đã góp phần vào
những mục tiêu không hỗ trợ đầu tư và đổi mới của
doanh nghiệp. Cơ cấu của Anh tương tự như của Mỹ.
Các nhà đầu tư tổ chức đóng vai trò thống trị. Tuy
nhiên, không giống như Đức, Nhật Bản và Thụy Sĩ,
họ không coi mình là những nhà đầu tư lâu dài.
Không có những ngân hàng chung có thể đóng vai
trò kép vừa là những chủ nợ vừa là cổ đông. Kết quả
là ở Anh cũng có những loại hành vi thị trường giống
như những hành vi phổ biến ở Mỹ. Vì những cổ đông
tổ chức chủ yếu quan tâm với việc tăng giá cổ phiếu
và lợi tức, việc mua bán cổ phiếu diễn ra liên tục,
làm căng thẳng thêm sự quan tâm của ban lãnh đạo
tới giá cổ phiếu, kéo theo xu hướng liên tục hướng
tới thu hoạch và sự bùng nổ sáp nhập và mua lại
công ty. Trong khi việc mua lại công ty thường dẫn
tới cắt giảm chi phí đáng kể và hợp lý hóa cơ sở sản
xuất, hình mẫu tái đầu tư thấp vẫn tiếp tục. Tỷ lệ đầu
tư tài sản cố định ròng trong ngành công nghiệp Anh
trong suốt giai đoạn hậu chiến gần như xếp cuối cùng