đạc kể trên, nhưng xem chừng chiếc thuyền mỏng manh này khó kham
thêm được nữa.
Vừa bước chân xuống thuyền, chúng tôi bỗng nghe tiếng gà gáy và
tiếng lũ gà vịt kêu buồn bã như muốn tiễn biệt chúng tôi. Đột nhiên tôi nghĩ
rằng có lẽ nên đem chúng cùng đi. Bỏ chúng lại đây, mình không thể nuôi
được chúng, mà đưa theo lên đất liền biết đâu chúng lại chẳng nuôi được
mình! Mọi người tán thành ý kiến ấy nên cùng đi tìm những con vật đáng
thương đó. Tôi thả vào trong một cái thùng trên thuyền một chục con gà
mái với hai con gà trống rồi cẩn thận lấy tấm vải buồm đậy lên trên để
chúng khỏi bay ra. Còn bọn ngỗng, vịt và bồ câu thì cứ thả chúng ra chắc
chắn chúng sẽ vào tới đấy liền dễ dàng và nhanh hơn chúng tôi hoặc bay
lên trời, hoặc bơi dưới nước.
Tất cả gia đình tôi đều đã cuống thuyền và ngồi vào chỗ, chỉ còn chờ
vợ tôi ra nữa là nhổ sào. Vợ tôi vốn là người rất lo xa cho nên tôi đồ rằng
bà ấy còn tìm kiếm cái gì đặc biệt có ích cho nên mới ra chậm. Cuối cùng
vợ tôi xuống thuyền, trên vai mang một tay nải khá lớn. Bà ném tay nải vào
trong cái thùng mà bé Phrít đã ngồi sẵn từ trước và nói: “Đây là túi đồ dùng
vạn năng của tôi đấy!”. Tôi đoán là một cái nệm gối để cho thằng bé ngồi
cho êm trong cái thùng ngổn ngang trăm thứ này và tôi cũng chẳng để ý
đến nữa.
Tôi cởi dây neo và chúng tôi lên đường. Vợ tôi ngồi ở thùng thứ nhất.
Phrít chiếm thùng thứ nhì ngay bên cạnh mẹ. Phrê-đê-rích giữ cái thùng thứ
ba để trông nom vũ khí cất ở thùng thứ tư cùng với đàn gà và tấm vải
buồm. Kho lương thực là thùng số năm, Ruýt-ly trông nom nồi niêu soong
chảo thì ngồi ở thùng thứ sáu. Éc-nét lọt thỏm trong thùng thứ bảy, giữa
trăm thứ đồ dùng linh tinh. Còn tôi, đứng vững trong cái thùng thứ tám, cố
gắng điều khiển con thuyền mỏng manh trên đó tập trung tất cả những gì
thân yêu và quí báu nhất.