đảo. Anh gói trứng trong những tấm khăn lụa, bỏ vào trong bốn thùng tròn
bằng gỗ, bít kín và gan xì. Anh xoay sở lên được một chiếc tàu thuỷ đưa
anh về đại lục, và vào những ngày đầu tháng ba anh đến bờ biển Nga. Anh
chọn con đường cực bắc, tìm thời tiết lạnh để ngăn chặn trứng phát triển
bình thường, kéo dài thời gian còn lại trước khi trứng nở. Dầm mưa dãi
tuyết, anh băng qua bốn ngàn cây số vùng Sibérie, vượt rặng núi Oural và
đến Saint - Pétersbourg. Anh mua hàng tạ nước đá với giá vàng rồng, cho
chất vào hầm tàu chung với các thùng gỗ chứa trứng trong một chiếc tàu
thuỷ đi Hambourg. Mất hết sáu ngày mới đến hải cảng đó. Anh lấy xuống
bốn cái thùng tròn bằng gỗ và lên tàu lửa xuôi Nam. Khoảng mười một giờ
đồng hồ sau khi rời ga, vừa ra khỏi ngôi làng tên là Eberfeld, tàu dừng lại
lấy nước. Hervé Joncour nhìn quanh. Một mặt trời mùa hè chói lọi chiếu
sáng trên màu xanh những đồng lúa mì, và trên cả mặt đất. Ngồi trước mặt
anh là một lái buôn người Nga: ông ta đã cởi giày và quạt lấy, quạt để với
trang chót của một tờ báo viết bằng tiếng Đức. Hervé Joncour nhìn kỹ ông.
Anh thấy những đốm mồ hôi trên áo sơ mi và những giọt mồ hôi đọng trên
trán và trên cổ ông. Người Nga vừa nói cái gì đó, vừa cười. Hervé mỉm
cười với ông, đứng dậy, lấy hành lý và xuống tàu. Anh đi ngược lên toa
cuối cùng, toa hàng hóa cho cá và thịt ướp trong nước đá. Nước chảy rỉ như
một cái chậu bị bắn thủng bởi ngàn viên đạn. Anh mở cửa toa, leo vào và
lấy xuống từng cái một bốn thùng tròn bằng gỗ, đem ra ngoài, đặt xuống
đất, bên cạnh đường rầy. Rồi anh đóng cửa toa tàu lại, và chờ. Khi tàu sắp
sửa chuyển bánh, hành khách trên tàu la hét kêu anh gấp rút nhanh chân leo
lên nhưng anh lắc đầu và ra dấu chào từ biệt. Anh nhìn đoàn tàu xa dần rồi
khuất hẳn. Anh chờ cho tới khi chẳng còn nghe một tiếng động nào nữa.
Rồi anh cúi xuống trước một thùng gỗ, cắt xí và mở ra. Chậm rãi, cẩn thận.
Hàng triệu con sâu tằm. Chết.
Đó là ngày 6 tháng năm 1865.
51.