Tôi giơ cho Ô-lép thấy chiếc xà cột, cuốn từ điển và tấm bản đồ. Sau đó
tôi chìa cho cậu ta thấy bức thư.
- Lạ nhỉ, - Ô-lép nói nhanh. - Địa chỉ trùng lặp. Đó chính là địa chỉ gia
đình nhà Ca-rơ-vét mà chúng ta đã báo cho họ biết về Vê-li-ran-đơ.
- Và cái xà cột sĩ quan nữa.
- Ừ, cũng như bức thư.
- Những thứ này cần phải đem đến đấy… đến phố Mận.
- Tớ cũng nghĩ như thế.
Tôi bỏ chiếc xà cột dã chiến vào giỏ. Chúng tôi giấy nó ở dưới đáy giỏ
và phủ nấm lên trên. Nhưng vì ít nấm, nên chúng tôi bẻ mấy cành hoa
thanh lương trà đỏ để lên trên cùng.
- Kể cũng thú vị đấy chứ, - Ô-lép nói, - thế nào mà lại là chính chúng ta
đã tìm được chiếc xà-cột dã chiến! Từ dạo ấy đến nay đã hơn một năm
rồi…
- Từ hồi nào?
- Từ hồi chiếc xà cột có ở đấy ấy.
Đúng thế. Thời gian trôi nhanh ghê! Những chiếc ủng của lính Đức đã
nện trên đất nước tôi đến năm thứ hai rồi.
Một giờ sau chúng tôi đã ở phố Mận.
Ngôi nhà quen thuộc. Cửa vào quen thuộc. Cánh cửa vào tầng hầm vẫn
hé mở như cái lần chúng tôi theo dõi lão Vê-li-ran-đơ.
Chúng tôi theo cầu thang lên tần hai.
Ô-lép gõ cửa.
Thoáng nghe tiếng bước chân bên kia cửa và cánh cửa mở ra. Tôi và Ô-
lép sững người ngạc nhiên: đứng trước mặt chúng tôi là Mê-ê-li. Mê-ê-li
Li-vich học cùng lớp chúng tôi. Cô bé ở đây làm gì nhỉ.
Tôi đã biết Mê-ê-li sống cùng với cha mẹ ở nông thôn cơ mà. Hồi trước
chiến tranh hàng ngày cô bé vẫn đi ô tô buýt đến trường. Nhưng từ ngày